Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Công Hành”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
BTMKhôi (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
BTMKhôi (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 4:
Theo thần phả của họ Bùi Trần gốc Mạc ở [[Quất Động]] thì Lê Công Hành vốn thuộc dòng dõi [[nhà Mạc]]. Năm 1546, [[Mạc Hiến Tông]] băng hà, triều đình nhà Mạc nổ ra biến loạn. Quân [[Lê Trung hưng|Nam triều]] nhân cơ hội nhà Mạc suy yếu, nhiều lần tiến quân ra Bắc đánh phá. Hoàng thất nhà Mạc tan tát khắp nơi, một nhánh theo Quý phi [[Bùi Thị Ban]] chạy tránh loạn về định cư ở thôn Quất Động, về sau đổi thành họ Bùi và họ Trần, lập nên chi họ Bùi Trần ở Quất Động.<ref>{{Chú thích web|url=http://nongthonviet.com.vn/kham-pha/202003/long-tua-gam-mieng-tua-theu-757020/index.htm|tựa đề=Dòng dõi của Lê Công Hành|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>
 
Lê Công Hành chính tên là '''Trần Quốc Khái''' (陳國凱), sinh ngày 18 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1606), tại làng Quất Động, huyện Thượng Phúc, [[Thường Tín (phủ)|phủ Thường Tín]], [[trấn Sơn Nam]] (nay là thôn Quất Động, xã [[Quất Động]], huyện [[Thường Tín]], [[Hà Nội]]<ref>{{Chú thích web|url=https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/lang-theu-quat-dong/441769.html|tựa đề=Làng nghề thêu truyền thống Quất Động|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>). [[Mạc Phúc Đăng]] là con bà [[Bùi Thị Ban]] về lánh nạn ở làng Quất Động. Tại đây, Mạc Phúc Đăng sinh con là Mạc Phúc Đồ. Mạc Phúc Đồ lại sinh ra '''Trần Quốc Khái'''<ref name=":0" />. Vì ông được cho làm con nuôi của một người [[Bùi (họ)|họ Bùi]] trong làng, nên còn có tên là '''Bùi Quốc Khái''' (裴國凱), sau đổi tên thành '''Công Hành''' (公衡).
 
Tương truyền, từ nhỏ ông đã có tiếng ham học và hay chữ. Lớn lên, ông thi đỗ [[Tiến sĩ Nho học|Tiến sĩ]] (vào khoảng triều vua [[Lê Thần Tông]] hoặc [[Lê Chân Tông]]). Sau khi ra làm quan, ông được triều đình bổ dụng vào các chức vụ từ biên quận đến triều đình, thăng dần lên hàng Thượng thư, từng được cử đi sứ [[nhà Minh]]. Do lập được nhiều công trạng, ông được triều đình ban cho Kim tử Vinh Lộc Đại phu, chức Tả thị lang bộ Công, tước Thanh Lương hầu, được vua ban quốc tính. Do đó mà ông có tên '''Lê Công Hành'''.
Dòng 13:
Trước thế kỷ 18, người Việt đã biết nghề thêu và làm lọng từ lâu. Sử cũ từng ghi vào thời [[nhà Trần|Trần]], vua quan quen dùng đồ thêu và lọng. Năm 1289, vua Trần đã gửi tặng vua Nguyên một đệm vóc đỏ thêu chỉ vàng, một tấm thảm gấm viền nhiễu<ref>Theo Từ Minh Thiện viết trong tập ''Thiên nam hành ký''.</ref>. Tháng Giêng năm Quý Tỵ (1293), Trần Phu trong đoàn sứ nhà Nguyên sang [[Đại Việt]] có nhận xét: ''"Về phẩm hàm của các quan Đại Việt, ai cao ai thấp cứ nhìn vào lọng mà phân biệt. Hễ là khanh tướng thì đi ba cây lọng xanh, bậc thấp hơn thì đi hai lọng, rồi một lọng. Còn như lọng tía thì chỉ có những người trong hoàng tộc mới được dùng"''.<ref>Theo Trần Phu viết trong ''An Nam tức sự''.</ref>
 
Tuy vậy, nghề thêu ở Đại Việt trước thế kỷ XVIII còn đơn sơ, quanh quẩn với những màu chỉ ngũ sắc và chỉ kim tuyến, làm những mặt hàng phục vụ cho vua, quan, cho nhà chùa (thêu mũ, mãng, triều phục, nghi môn, cờ phướn…). Trong ngôi mộ cổ đào được ở Vân Cát, Nam Hà, có niên đại khoảng thế kỷ 18, người ta thấy: bên cạnh cái quạt, có một túi trầu bằng gấm thêu kim tuyến, một túi đựng thuốc lào cũng bằng gấm thêu kim tuyến. Đến thời Bùi Công Hành, ông được cho là đã dạy cho người làng Quất Động những kỹ thuật thêu và làm lọng tân tiến hơn mà ông đã tiếp thu được trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Từ đó, nghề thêu và làm lọng trở nên phát triển hơn, lan dần ra nhiều làng nghề trên khắp cả nước. Để ghi nhớ công đức của ông, người dân làng nghề tại Thường Tín lập nên Đền Ngũ Xã (do dân 5 xã lập). Trong đền có tấm bia ''Vũ Du Tiên sư bi ký'' ghi lại sự tích của tổ nghề thêu. Ngoài ra còn còn có một số đền thờ khác như như đình Tú Thị ở số 4 phố Yên Thái, quận Hoàn Kiếm,<ref name=":0">[http://nguoihanoi.com.vn/dinh-tu-thi-va-chuyen-ong-to-nghe-tho-theu_234890.html Đình Tú Thị và chuyện ông tổ nghề thợ thêu]</ref> hoặc đền thờ ở phố Hàng Lọng (nay thuộc khu vực đường Nam Bộ) nay không còn, <ref>[https://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/qua-pho-hang-long-nho-nghe-theu-tay-2277488 Qua phố Hàng Lọng nhớ nghề thêu tay]</ref>, đình làng Nhị Khê thờ Tổ nghề tiện Lê Công Hành...<ref>Nguyễn Xuân Tham, ''Thường Tín đất danh hương''. NXB Hà Tây, 2004. Tr.387 - 394.</ref>
 
Lễ giỗ tổ nghề của những làng sinh sống bằng nghề thêu tại Việt Nam thường được tổ chức vào ngày giỗ hàng năm của ông. Chỉ riêng tại Huế, lễ tế Tổ sư nghề thêu Lê Công Hành tại phổ Cẩm Tú - Huế lại được tổ chức vào ngày 22 tháng Giêng âm lịch hằng năm và ngày mồng 4 tháng Sáu âm lịch là ngày kỷ tổ.<ref>[http://netcodo.com.vn/vi/55/82/Le-hoi/Le-te-To-su-nghe-theu.html#.X5TYPtQzZqN Lễ tế Tổ sư nghề thêu]</ref>