Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triết Mẫn Hoàng quý phi”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 1:
'''Triết Mẫn Hoàng quý phi''' ([[chữ Hán]]: 哲憫皇貴妃; ??? -
| tên = Triết Mẫn Hoàng quý phi
| tên gốc = 哲憫皇貴妃
Dòng 19:
== Gia thế ==
Triết Mẫn Hoàng quý phi không rõ ngày, tháng, năm sinh, mang họ [[Phú Sát thị]], tuy nhiên không hề liên quan gì đến hay thuộc dòng dõi của [[Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu]] như một số hiểu lầm
Trong [[Khâm định Bát Kỳ thông chí]] (欽定八旗通志),gia tộc của Triết Mẫn Hoàng quý phi lại được ghi là Ông Quả Đồ nhậm ''Bao y Tá lĩnh'' (包衣佐領), trước đó từng nhậm ''Bao y đại'' (包衣大), nếu truy xét ra thì gia tộc xếp vào ''Chính Hoàng kỳ Bao y Quản lĩnh hạ nhân'' (正黃旗包衣的管領下人), thuộc người trong [[Tân giả khố]]. Có nhiều khả năng suy đoán,gia tộc Phú Sát thị được chia ra, một ở Đông Bắc và một ở Kinh Kỳ phân làm hai nhánh. Trong đó, nhánh ở Đông Bắc là [[Mãn Châu]] [[Bát kỳ|Chính Hoàng kỳ]], nhậm chức Tá lĩnh, Phòng ngự, Hiệp lãnh có từ đời tổ tiên,còn Phú Sát thị ở Kinh Kỳ lại là [[Bát kỳ|Chính Hoàng kỳ Bao y]], kỳ tịch có khác biệt đôi chút so với tộc
== Hoàng tứ tử thiếp ==
Với thân phận Chính Hoàng kỳ Bao y, tức thuộc Thượng tam kỳ Nội vụ phủ, Phú Sát thị trở thành hầu cận trong Hoàng thất, vì vậy có lẽ sau đó trở thành thiếp thất trong Vương phủ của Bảo Thân vương [[Hoằng Lịch]], phân vị [[Cách cách]]. Bà là người đầu tiên vào phủ của Bảo Thân vương.
Vào năm Ung Chính thứ 5 ([[1727]]), ngày [[18 tháng 7]] (âm lịch),
Vào năm Ung Chính thứ 12 ([[1734]]),Ung Chính Đế ban [[Tuệ Hiền Hoàng quý phi|Cao thị]] và [[Kế Hoàng hậu|Na Lạp thị]] trở thành [[Trắc Phúc tấn]] của Bảo Thân vương.
Theo lệ của cung đình Mãn Thanh, Hoàng tử chỉ có 2 Trắc Phúc tấn theo cách là được chỉ định trong Bát kỳ Tuyển tú,hoặc là hầu nữ sinh được con cái cũng có thể thỉnh phong.Na Lạp thị xuất thân Tương Lam kỳ, được chỉ định trong Bát kỳ Tuyển tú,còn Cao thị đã vào phủ làm hầu nữ cho Hoằng Lịch (có lẽ cùng thời điểm với Phú Sát thị), nhưng Cao thị luôn không có thai mà vẫn được ban làm Trắc Phúc tấn, trong khi Phú Sát thị sinh hạ con trai cả lại không được như vậy.
Theo chỉ dụ khi Hoằng Lịch đăng cơ: [''"Chỉ có Cách cách sinh được con mới có tư cách thỉnh phong làm Trắc Phúc tấn"''], đã dẫn đến suy đoán trong thời gian Ung Chính Đế còn tại vị, Hoằng Lịch đã từng thỉnh phong một Cách cách đã sinh hạ con trai nhưng lại bị Ung Chính Đế từ chối, và Phú Sát thị là người có khả năng nhất. Về nguyên nhân này,theo nhiều suy đoán cùng biểu hiện cho thấy Ung Chính Đế đang trọng dụng [[Cao Bân]], cha của Cao thị, nên ngoài việc để lại chức Trắc Phúc tấn cho Cao thị, thì chỉ định Na Lạp thị thay thế để Phú Sát thị không thể trở thành Trắc Phúc tấn được nữa. Xét tỉ mỉ mà nói, cả Phú Sát thị và Cao thị đều là Bao y, mà Phú Sát thị vốn là người Mãn, nếu Phú Sát thị trở thành Trắc Phúc tấn thì địa vị sẽ vượt qua Cao thị - người đang được Ung Chính Đế coi trọng.
== Truy Tặng làm Hoàng Quý Phi ==
Năm Ung Chính thứ 13 ([[1735]]), ngày [[3 tháng 7]] (âm lịch),
Năm Càn Long ([[1736]]), vào [[tháng 10]], Càn Long Đế truy phong tộc [[ Phú Sát thị ]] thụy hiệu '''Triết phi''' (哲妃). Lúc này hậu cung chưa công bố danh phận,việc lập Đích phi
Nội dung Sơ thứ tế văn (哲妃初次祭文) của Triết phi Phú Sát thị:
Năm Càn Long thứ 10 ([[1745]]), ngày [[23 tháng 1]] (âm lịch),Càn Long Đế ra chỉ dụ phong Quý phi Cao thị làm [[Hoàng quý phi]]. Sang ngày [[24 tháng 1]] (âm lịch),ngay trước 1 ngày Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao thị qua đời (tức ngày [[25 tháng 1]]),Càn Long Đế tiếp tục hạ chỉ truy phong Triết phi Phú Sát thị làm Hoàng quý phi. Sang ngày [[26 tháng 1]],sau khi Hoàng quý phi Cao thị vừa mất,Càn Long Đế chính thức ban [[thụy hiệu]] cho Hoàng quý phi Phú Sát thị là '''Triết Mẫn Hoàng quý phi''' (哲憫皇貴妃), [[tháng 4]] năm đó khiển quan làm lễ sách thụy,tế cáo [[Thái miếu|Thái Miếu]] và [[Phụng Tiên điện]]<ref>皇朝文獻通考 (四庫全書本)/卷103: 十年四月甲子以乙丑冊諡慧賢皇貴妃庚午冊諡哲憫皇貴妃遣官祭告太廟後殿奉先殿</ref>. Theo [[Hồng xưng thông dụng]] (鴻稱通用), thụy hiệu ''"Triết"'' có Mãn văn là 「Getuken」, ý là ''"can tịnh"'', ''"rõ ràng"'', có liên hệ với 「Ulhisu」, nghĩa là ''"thông minh"''. Về sau, lại gia thêm ''"Mẫn"'', Mãn văn là 「Hairacuka」, nghĩa là ''"đáng tiếc"''.▼
{{Cquote|
赞璇宫而敷化,壼范常昭。播彤管以流芬,芳徽永谢。聿深追悼,用奠几筵。维尔哲妃富察氏,秉性端凝,持躬谨慎。矢小心而匪懈,早着贤声。期景福之方长,益勤内职。乃瑶华正茂,痛零落之遽闻。遂岁序迭,更怅音容其莫睹。馨香式荐,轸恻弥殷,于戏。稽彝典以加封,丝纶特沛。念珩璜而如昔,牲醴空陈。灵克有知,尚其歆格。
Tán tuyền cung nhi phu hóa. Khổn phạm thường chiêu. Bá đồng quản dĩ lưu phân, phương huy vĩnh tạ. Duật thâm truy điệu, dụng điển cơ duyên.
Năm Càn Long thứ 17 ([[1752]]), ngày [[27 tháng 10]],bà được an táng vào địa cung [[Dụ lăng]] tại [[Thanh Đông lăng]], [[Bắc Kinh]]. Bà là một trong 5 vị hậu phi được cùng an táng ở địa cung của Dụ lăng với Càn Long Đế, bên cạnh [[ Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu ]], [[ Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu ]], [[ Tuệ Hiền Hoàng quý phi ]] và [[ Thục Gia Hoàng quý phi ]].Thần vị của bà được thờ trong [[Long Ân điện]] (隆恩殿) của Dụ lăng,thuộc phía Tây Noãn các,phía Đông của thần vị Tuệ Hiền Hoàng quý phi,còn phía Tây là Thục Gia Hoàng quý phi.▼
Duy Triết phi Phú Sát thị. Bỉnh tính đoan ngưng. Trì cung cẩn thận. Thi tiểu tâm nhi phỉ giải. Tảo trứ hiền thanh. Cơ cảnh phúc chi phương trường. Ích cần nội chức. Nãi giao hóa chánh. Mậu thống linh lạc chi cự văn. Toại tuế tự điệt. Canh trướng âm dung cơ mịch đổ. Hinh hương thực trãi. Chẩn trắc di an.
Vu hí! Khê di diễn dĩ, gia phong ty đổ.|||Triết phi tế văn}}
▲Năm Càn Long thứ 10 ([[1745]]), ngày [[23 tháng 1]] (âm lịch), Càn Long Đế ra chỉ dụ phong Quý phi Cao thị làm [[Hoàng quý phi]]. Sang ngày [[24 tháng 1]] (âm lịch),
Sách thụy rằng:
{{Cquote|
佐内治于璇宫,永怀令范。播遗徽于兰所,愈阐潜光。典备哀荣,恩均存殁。尔哲悯皇贵妃富察氏,赋质端纯,宅衷和厚。功分丝茧,怀夙夜之小心。德比珩璜,赞宫闱之雅化。溯音容于既往,垂誉问以方来。位号加崇,几筵载布,于戏。缅维爱子之忱,问年已长。眷念行身之矩,锡命弥彰。灵其有知,庶几歆格。
Tá nội trị vu tuyền cung. Vĩnh hoài lệnh phạm. Bá huy di vu lan sở dĩ. Xiển tiềm quang điểm. Bi ai vinh ân. Quân tồn một nhĩ.
Triết Mẫn Hoàng quý phi Phú Sát thị. Phú chất đoan thuần. Trạch chung hòa hậu. Công phân ty kiển. Hoài túc dịch chi tiểu tâm. Đức bì hành hoàng. Tán cung vi chi nhã hóa. Tố âm dung vu ký. Vãng thùy dự vấn dĩ phương lãi vị, hiệu gia sùng cơ diên tái. Bố hư vu diễn duy ái tử chi thầm vấn niên dĩ trưởng quyến niệm hành thân chi củ tích.
Mệnh Di Chương Linh cơ hữu tri, thứ cơ Hâm Cách. |||Sách viết thụy Hoàng quý phi Phú Sát thị làm Triết Mẫn Hoàng quý phi}}
▲Năm Càn Long thứ 17 ([[1752]]), ngày [[27 tháng 10]],
==Xem thêm==
|