Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kinh Chuyển pháp luân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Vui lòng đừng sửa nội dung nếu chưa am hiểu
Thẻ: Đã bị lùi lại Thêm thẻ nowiki Soạn thảo trực quan
n Đã lùi lại sửa đổi 64023742 của Ariyadhamma (thảo luận) Wikipedia không phải là một mớ bừa bãi các thông tin. Vui lòng không spam kinh phật, giáo lý vào
Thẻ: Lùi sửa Thêm một hay nhiều mục vào danh sách
Dòng 76:
 
Do đó Ngài Kondanna có tên là Annata Kondanna (A nhã Kiều Trần Như).
 
= Tìm hiêu bài kinh chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattanasutta) =
 
= Hai pháp cực đoan thuộc 2 biên kiến =
Thường thụ hưởng an-lạc trong ngũ-dục: sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục, do tâm tham hợp với thường-kiến là cách sống của người tại gia.
 
Nhóm người có quan niệm sai lầm cho rằng: tâm sân thật là tai hại! Khổ tâm là do tâm sân. Muốn diệt tâm sân chỉ có đối-tượng ngũ-dục đáng hài lòng, để tâm tham phát sinh hài lòng trong mọi đối-tượng ngũ-dục ấy.
 
Thường tự mình ép xác hành-khổ-hạnh như nằm trên gai nhọn, ngâm mình trong nước lạnh, đốt lửa làm nóng thân thể, v.v… với tâm sân do đoạn-kiến theo cách thực-hành pháp-hành khổ-hạnh của tu-sĩ ngoại đạo.
 
Nhóm người có quan niệm sai lầm cho rằng: tâm tham trong ngũ-dục thật là tai hại! Mọi sự say mê trong ngũ-dục do tâm tham. Muốn diệt tâm tham chỉ có tự mình ép xác thực-hành pháp-hành khổ-hạnh, để tâm sân không hài lòng phát sinh mà thôi.
 
Bậc xuất-gia không nên thực-hành 2 pháp cực đoan thuộc về 2 biên kiến, mà nên thực-hành theo pháp-hành trung-đạo (majjhimapaṭipadā) là pháp-hành dẫn đến diệt tâm tham và tâm sân, đồng thời diệt tâm si.
 
Pháp-hành trung-đạo (Majjhimā paṭipadā) là pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định. Đó là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
 
= Tóm lược Tứ Thánh-đế =
Trong bài kinh Chuyển-Pháp-Luân
 
Ariyasacca: Thánh-đế là sự-thật chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ. Ariyasacca: Thánh-đế có 4 pháp:
 
1- Dukkha ariyasacca: Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, là sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ thuộc về tam-giới, là đối-tượng của 4 pháp chấp-thủ đều là khổ-Thánh-đế.
 
2- Dukkhasamudaya ariyasacca: Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham tâm-sở gọi là tham-ái, có ba loại tham-ái (taṇhā):
 
– Kāmataṇhā: Dục-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) trong cõi dục-giới.
 
– Bhavataṇhā: Hữu-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến và tham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.
 
– Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với đoạn-kiến.
 
3- Dukkhanirodha ariyasacca: Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn, pháp diệt khổ-Thánh-đế.
 
4- Dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasacca: Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
 
Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo giảng giải về 16 thật-tánh của tứ Thánh-đế: (1)
 
1- Khổ-Thánh-đế (Dukkha-ariyasacca) đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, hoặc sắc-pháp và danh-pháp tam-giới đó là 81 tam-giới-tâm (trừ 8 siêu-tam-giới-tâm) và 51 tâm-sở (trừ tham tâm-sở), có 4 thật-tánh:
 
* Thật-tánh khổ là luôn hành hạ.
* Thật-tánh khổ là do nhân-duyên cấu tạo.
* Thật-tánh khổ làm nóng nảy.
* Thật-tánh khổ là luôn luôn biến đổi.
 
2- Nhân sinh khổ-Thánh-đế (dukkhasamudaya ariya-sacca) đó là tham tâm-sở gọi là tham-ái, có 3 loại tham-ái (taṇhā) là nhân sinh khổ-Thánh-đế, có 4 thật-tánh là:
 
* Thật-tánh làm nhân sinh khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh khổ làm cho phát sinh khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh ràng buộc trong khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh dính mắc trong khổ-Thánh-đế.
 
3- Diệt khổ-Thánh-đế (dukkhanirodha ariyasacca) đó là Niết-bàn là pháp diệt khổ-Thánh-đế, có 4 thật-tánh:
 
* Thật-tánh giải thoát khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh không bị ràng buộc trong khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh không bị nhân-duyên cấu tạo.
* Thật-tánh không tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
 
4- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Dukkha-nirodhagaminī paṭipadā ariyasacca) đó là pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, có 4 thật-tánh là:
 
* Thật-tánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn.
* Thật-tánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
* Thật-tánh là pháp-hành giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Thật-tánh là pháp-hành dẫn đầu làm phận sự: – Biết khổ-Thánh-đế. – Diệt nhân sinh khổ-Thánh-đế. – Chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.
 
Tất cả 16 thật-tánh của tứ Thánh-đế này đồng thành-tựu cùng một lúc trong 4 Thánh-đạo-tâm.
 
= Tam-tuệ-luân trong Tứ Thánh-đế =
1- Sacca ñāṇa: Trí-tuệ-học biết trong tứ Thánh-đế.
 
2- Kicca ñāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.
 
3- Kata ñāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.
 
== Tam-tuệ-luân trong Khổ-Thánh-đế ==
– Trí-tuệ-học là trí-tuệ-học hiểu biết rõ khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ (dukkhaṃ ariyasaccaṃ).
 
– Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực-hành phận sự của pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ khổ-Thánh-đế là pháp nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññeyyaṃ).
 
– Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý khổ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ biết rõ khổ-Thánh-đế là pháp nên biết thì đã biết bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññātaṃ).
 
== Tam-tuệ-luân trong nhân sinh Khổ-Thánh-đế ==
– Trí-tuệ-học là trí-tuệ-học hiểu biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là 3 loại tham-ái (dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ).
 
– Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực-hành phận sự của pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhasamudayaṃ ariya-saccaṃ pahātabbaṃ).
 
– Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý nhân sinh khổ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt thì đã diệt tận bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhasamudayaṃ ariya-saccaṃ pahīnaṃ).
 
== Tam-tuệ-luân trong diệt Khổ-Thánh-đế ==
– Trí-tuệ-học là trí-tuệ-học hiểu rõ diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ).
 
– Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực-hành pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ diệt khổ- Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikātabbaṃ).
 
– Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý diệt khổ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ biết rõ diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ thì đã chứng ngộ bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikataṃ).
 
== Tam-tuệ-luân trong pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế ==
– Trí-tuệ-học là trí-tuệ-học hiểu rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ).
 
– Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực-hành pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến-hành bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabbaṃ).
 
– Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ biết rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành thì đã tiến hành bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvitaṃ).
 
Tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế gồm có 12 loại trí-tuệ đóng vai trò quan trọng làm phận sự chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế mà Đức-Phật Gotama đã thuyết giảng trong bài kinh Dhammacakkappavattanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân rằng:
 
– Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân, (trí-tuệ học, trí-tuệ hành, trí-tuệ thành) (4×3) thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng thanh-tịnh đã phát sinh đến Như-Lai.
 
– Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho” Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác vô-thượng trong toàn cõi-giới chúng-sinh: nhân-loại, vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, Ma-vương, phạm-thiên cả thảy.
 
= Thực-Hành Pháp-Hành Thiền-Tuệ =
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, rồi chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn. Hành-giả cần phải học và hành theo tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế.
 
1- Sacca ñāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế.
 
2- Kicca ñāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.
 
3- Kata ñāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.
 
Hành-giả cần phải học và hành theo tuần tự trong tam-tuệ-luân như sau:
 
== 4 Trí-tuệ-học trong Tứ Thánh-đế ==
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trước tiên cần phải học pháp-học trong tứ Thánh-đế đó là học 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế cho hiểu biết rõ chi pháp của mỗi Thánh-đế như sau:
 
Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ Ngũ-uẩn chấp-thủ nghĩa là ngũ-uẩn là đối-tượng của 4 pháp chấp-thủ trong đối-tượng:
 
– Kāmupādāna: Chấp-thủ trong ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục) trong cõi dục-giới, có chi-pháp là tham tâm-sở đồng sinh với 8 tham-tâm.
 
– Diṭṭhupādāna: Chấp-thủ trong tà-kiến (ngoài sīlab- batupādāna và attavādupādāna), có chi-pháp là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
 
– Sīlabbatupādāna: Chấp-thủ trong pháp-thường-hành sai lầm, có chi-pháp là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
 
– Attavādupādāna: Chấp-thủ trong ngũ-uẩn cho là ta, có chi-pháp là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
 
4 pháp chấp-thủ này trong tam-giới: dục-giới, sắc- giới, vô-sắc-giới.
 
Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 pháp đó là:
 
1- Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
 
2- Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở trong 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
 
3- Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở trong 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
 
4- Hành-uẩn chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (trừ thọ tâm- sở và tưởng tâm-sở) trong 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
 
5- Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm là đối- tượng của pháp chấp-thủ.
 
=== Ngũ-uẩn chấp-thủ này thuộc khổ-Thánh-đế là pháp nên biết ===
– Chúng-sinh ở trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới đều có đủ ngũ-uẩn.
 
– Chúng-sinh ở trong 4 cõi vô-sắc-giới chỉ có 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) mà thôi.
 
– Chúng-sinh ở trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên chỉ có 1 uẩn là sắc-uẩn mà thôi. Mỗi tâm phát sinh đều có đủ 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn). Thật vậy, mỗi tâm phát sinh chắc chắn có số tâm-sở đồng sinh với tâm ấy.
 
– Tâm ấy thuộc về thức-uẩn.
 
– Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn.
 
– Tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về tưởng-uẩn.
 
– Số tâm-sở còn lại đồng sinh với tâm ấy thuộc về hành-uẩn.
 
– Hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm thuộc về sắc-uẩn.
 
<nowiki>*</nowiki> Đối với chúng-sinh trú trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới (trừ cõi Vô-tưởng-thiên), mỗi tâm phát sinh đều có đầy đủ ngũ-uẩn phát sinh.
 
<nowiki>*</nowiki> Đối với chúng-sinh trú trong 4 cõi vô-sắc-giới, mỗi tâm phát sinh đều có đầy đủ tứ-uẩn phát sinh.
 
<nowiki>*</nowiki> Đối với chúng-sinh trú trong 1 cõi sắc-giới Vô- tưởng-thiên chỉ có nhất-uẩn là sắc-uẩn.
 
<nowiki>*</nowiki> Còn thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 8 siêu-tam-giới-tâm (4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh- quả-tâm) không phải là đối-tượng của 4 pháp chấp-thủ.
 
Như vậy, 28 sắc-pháp và 81 tam-giới-tâm và 51 tâm-sở (trừ tham tâm-sở) đều thuộc về khổ-Thánh-đế là pháp nên biết.
 
=== Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham tâm-sở gọi là tham-ái ===
Tham-ái có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại, 108 loại:
 
Tham-ái có 3 loại đó là:
 
1- Kāmataṇhā: Dục-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) trong cõi dục-giới.
 
2- Bhavataṇhā: Hữu-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến, và tham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.
 
3- Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái là tham-ái trong 6 đối- tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp- ái) hợp với đoạn-kiến.
 
Tham-ái có 6 loại đó là tham-ái trong 6 đối-tượng:
 
1- Sắc-ái (rūpataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng sắc-dục.
 
2- Thanh-ái (saddataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng thanh-dục.
 
3- Hương-ái (gandhataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng hương-dục.
 
4- Vị-ái (rasataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng vị-dục.
 
5- Xúc-ái (phoṭṭhabbataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng xúc-dục.
 
6- Pháp-ái (dhammataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng pháp-dục.
 
– Tham-ái có 18 loại đó là 3 loại tham-ái nhân với 6 đối-tượng ái thành 18 loại tham-ái.
 
– Tham-ái có 54 loại đó là 18 loại tham-ái nhân với 3 thời (quá-khứ, hiện-tại, vị-lai) thành 54 loại tham-ái.
 
– Tham-ái có 108 loại đó là 54 loại tham-ái nhân với 2 (bên trong của mình và bên ngoài mình của người khác, đối-tượng khác) thành 108 loại tham-ái.
 
Các loại tham-ái thuộc về nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt.
 
=== Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn, diệt nhân sinh khổ-Thánh-đế ===
Niết-bàn có 2 loại đó là:
 
1- Hữu-dư Niết-bàn (Sa upādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là kilesaparinibbāna: tất cả mọi phiền-não Niết-bàn, nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
 
2- Vô-dư Niết-bàn (Anupādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là khandha- parinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn nghĩa là ngũ-uẩn diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào tái-sinh kiếp sau nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
 
Niết-bàn có ba loại theo đối-tượng thiền-tuệ đó là:
 
1-Vô-hiện-tượng Niết-bàn (Animittanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô- thường (aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-ngã, do năng lực tín-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của giới, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-hiện- tượng Niết-bàn (animittanibbāna): Niết-bàn không có hiện-tượng các pháp-hữu-vi.
 
2- Vô-ái Niết-bàn (Appaṇihitanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí- tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái vô-thường và trạng-thái vô-ngã, do năng lực định-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của định, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-ái Niết-bàn (appaṇihitanibbāna): Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.
 
3- Chân-không Niết-bàn (Suññatanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-ngã (anattalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-thường, do năng lực tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ), hoặc do năng lực của tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna): Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.
 
Những đối-tượng Niết-bàn ấy thuộc về diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ.
 
=== Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết- bàn, diệt khổ-Thánh-đế. ===
Bát-chánh-đạo có 8 chánh:
 
1- Chánh-kiến (Sammādiṭṭhi): Trí-tuệ chân-chính là trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
 
2- Chánh-tư-duy (Sammāsaṅkappa): Tư-duy chân-chính là:
 
* Tư-duy thoát ra khỏi ngũ dục,
* Tư-duy không làm khổ mình khổ người,
* Tư-duy không làm hại mình hại người.
 
3- Chánh-ngữ (Sammāvācā): Lời nói chân-chính là:
 
* Không nói-dối, mà nói lời chân thật,
* Không nói lời chia rẽ, mà nói lời hoà hợp,
* Không nói lời thô tục, mà nói lời nhã nhặn,
* Không nói lời vô ích, mà nói lời hữu ích.
 
4- Chánh-nghiệp (Sammākammanta): Nghề nghiệp chân-chính là:
 
* Không sát-sinh,
* Không trộm-cắp,
* Không tà-dâm.
 
5- Chánh-mạng (Sammā-ājīva): Nuôi mạng chân-chính là tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành ác và khẩu hành ác.
 
6- Chánh-tinh-tấn (Sammāvāyāma): Tinh-tấn chân-chính là:
 
* Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không phát sinh.
* Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
* Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.
* Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
 
7- Chánh-niệm (Sammāsati) là niệm chân-chính có 4 pháp là pháp-hành tứ-niệm-xứ:
 
* Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
* Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
* Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
* Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
 
8- Chánh-định (Sammāsamādhi): Định chân-chính là định-tâm trong các bậc thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
 
Bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh chỉ đồng sinh trong 8 hoặc 40 tâm siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng mà thôi, bởi vì trong bát-chánh-đạo có ba chánh: chánh-ngữ, chánh-nghiệp và chánh-mạng là ba chế-ngự tâm-sở thuộc loại niyata-ekatocetasika: ba tâm-sở cố định chỉ đồng sinh trong 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có Niết- bàn là đối-tượng mà thôi.
 
Tuy nhiên, bát-chánh-đạo có 8 chánh đó là 8 tâm-sở:
 
* Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở.
* Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở.
* Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở.
* Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở.
* Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở.
* Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở.
* Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở.
* Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở.
 
Tám tâm-sở này không thể đồng sinh với dục-giới-tâm, sắc-giới-tâm, vô-sắc-giới-tâm, bởi vì trong bát chánh đạo có 3 chánh: chánh-ngữ, chánh-nghiệp và chánh-mạng là 3 chế-ngự tâm-sở này thuộc về loại aniyata-yogīcetasika: bất-định tâm-sở gọi là nānākadāci: mỗi tâm-sở này sinh riêng rẽ và không nhất định trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm, bởi vì mỗi tâm và tâm-sở này có mỗi đối-tượng khác nhau.
 
= Phân biệt bát-chánh-đạo tam-giới và siêu-tam-giới =
Bát-chánh-đạo có 8 chánh mà mỗi chánh có nhiều loại như sau:
 
Chánh-kiến (Sammādiṭṭhi) là trí-tuệ chân-chính thấy đúng, biết đúng, có 5 loại:
 
– Kammassakatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến sở-nghiệp là trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện-nghiệp và ác-nghiệp mà ta đã tạo rồi là của riêng ta, và ta là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.
 
– Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến thiền-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.
 
– Magga sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm có Niết-bàn là đối-tượng.
 
– Phala sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-quả-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đồng sinh với 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng.
 
– Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến quán-triệt là trí-tuệ quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, phiền-não nào đã diệt tận được rồi, phiền-não nào còn lại chưa diệt được.
 
Trong 5 loại chánh-kiến này:
 
Chánh-kiến sở-nghiệp, chánh-kiến thiền-tuệ, chánh-kiến quán-triệt thuộc về tam-giới. Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ, chánh-kiến Thánh-quả- tuệ có Niết-bàn là đối-tượng thì thuộc về siêu-tam-giới. Thật ra, chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở (paññindriya cetasika) đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
 
Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-kiến thuộc về tam-giới. Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-kiến thuộc về siêu- tam-giới.
 
Chánh-tư-duy (Sammāsaṅkappa) là tư-duy chân- chính, có ba loại:
 
* Tư-duy thoát ra khỏi ngũ dục.
* Tư-duy không làm khổ mình, khổ người.
* Tư-duy không làm hại mình, hại người.
 
Thật ra, chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở (vitakka cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
 
Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-tư-duy thuộc về tam-giới. Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tư-duy thuộc về siêu-tam-giới.
 
Chánh-ngữ (Sammāvācā) là lời nói chân-chính, có ba loại:
 
– Kathā sammāvācā: Chánh-ngữ lời nói là nói hay, nói thật, nói lời chân-chính đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
 
– Cetanā sammāvācā: Chánh-ngữ tác-ý là tác ý đại-thiện tâm tránh xa 4 tà-ngữ:
 
* Tránh xa lời nói dối, mà nói lời chân thật.
* Tránh xa lời nói chia rẽ, mà nói lời hòa hợp.
* Tránh xa lời nói thô tục, mà nói lời nhã nhặn,
* Tránh xa lời nói vô ích, mà nói lời hữu ích.
 
– Virati sammāvācā: Chánh-ngữ chế-ngự là chế-ngự tâm-sở tránh xa tà-ngữ, khi đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ. Trong ba loại chánh-ngữ này:
 
Chánh-ngữ lời-nói, chánh-ngữ tác-ý thuộc về tam-giới. Chánh-ngữ chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng thuộc về siêu-tam-giới. Thật ra, chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở (sammāvācā cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
 
Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm ấy thì chánh-ngữ thuộc về tam-giới. Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-ngữ thuộc về siêu-tam-giới.
 
Chánh-nghiệp (Sammākammanta) là nghề nghiệp chân-chính, có ba loại:
 
– Kiriyā sammākammanta: Chánh-nghiệp hành-động là hành động thiện-nghiệp đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
 
– Cetanā sammākammanta: Chánh-nghiệp tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa ba tà-nghiệp:
 
* Tránh xa sự sát-sinh.
* Tránh xa sự trộm-cắp.
* Tránh xa sự tà-dâm.
 
– Virati sammākammanta: Chánh-nghiệp chế-ngự là chế-ngự tâm-sở tránh xa tà-nghiệp, khi đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
 
Trong ba loại chánh-nghiệp này, chánh-nghiệp hành-động, chánh-nghiệp tác-ý thuộc về tam-giới. Chánh-nghiệp chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng thuộc về siêu-tam-giới.
 
Thật ra, chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở (sammākammanta cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
 
Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm ấy thì chánh-nghiệp thuộc về tam-giới. Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-nghiệp thuộc về siêu-tam-giới.
 
Chánh-mạng (Sammā-ājīva) là nuôi mạng chân-chính, có hai loại:
 
– Vīriyasammā-ājīva: Chánh-mạng tinh-tấn là tinh-tấn nuôi mạng chân-chính, từ bỏ cách sống tà-mạng do thân hành ác, do khẩu nói ác.
 
– Viratisammā-ājīva: Chánh-mạng chế-ngự là chế-ngự tâm-sở tránh xa cách sống tà mạng, khi đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
 
Trong hai loại chánh-mạng này: Chánh-mạng tinh-tấn thuộc về tam-giới. Chánh-mạng chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng thì thuộc về siêu-tam-giới.
 
Thật ra, chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở (sammā-ājīva cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
 
Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm ấy thì chánh-mạng thuộc về tam-giới. Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-mạng thuộc về siêu-tam-giới.
 
Chánh-tinh-tấn (Sammāvāyāma) là tinh-tấn chân- chính, có 4 pháp:
 
* Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không phát sinh.
* Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
* Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.
* Tinh-tấn làm cho tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
 
Thật ra, chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở (vīriya cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
 
Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-tinh-tấn thuộc về tam-giới. Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tinh-tấn thuộc về siêu-tam-giới.
 
Chánh-niệm (Sammāsati) là niệm chân-chính, có bốn pháp là pháp-hành tứ niệm-xứ:
 
* Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
* Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
* Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
* Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
 
Thật ra, chánh-niệm đó là niệm tâm-sở (saticetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
 
Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-niệm thuộc về tam-giới. Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-niệm thuộc về siêu-tam-giới.
 
Chánh-định (Sammāsamādhi) là định chân-chính trong 5 bậc thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
 
* Đệ nhất thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
* Đệ nhị thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
* Đệ tam thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
* Đệ tứ thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
* Đệ ngũ thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
 
Thật ra, chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
 
Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-định thuộc về tam-giới. Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-định thuộc về siêu-tam-giới.
 
4 loại trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp-học Phật-giáo (pariyattisāsana).
 
4 Trí-tuệ-hành phận sự trong Tứ Thánh-đế
 
Sau khi đã học phần pháp-học tứ Thánh-đế đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế xong, hành-giả luân chuyển đến phần thực-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đó là 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế. Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, cần phải biết trí-tuệ-hành phận sự trong mỗi Thánh-đế thấy rõ, biết rõ mỗi Thánh-đế có mỗi phận sự riêng biệt như sau:
 
– Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ hay sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên biết sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là khổ-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành).
 
– Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là ba loại tham-ái, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên diệt tham-ái (2) từng thời (tadaṅgappahāna) bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).
 
– Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên chứng ngộ Niết-bàn (3) từng thời bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên biết, nên diệt, nên tiến hành).
 
– Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ).
 
Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế này, trí-tuệ-hành có phận sự nên biết sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là khổ-đế là chính, còn ba trí-tuệ-hành phận sự của ba đế kia là phụ. Thật ra, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế có sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới làm đối-tượng, phát sinh đồng thời không trước, không sau. Nếu khi trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới nào là khổ-đế, là pháp nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ.
 
– Cũng đồng thời tham-ái, nhân sinh khổ-đế bị diệt, không thể nương nhờ nơi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới ấy để phát sinh.
 
– Cũng đồng thời chứng ngộ sự diệt tham-ái, nhân sinh khổ nơi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới ấy.
 
– Cũng đồng thời đang tiến hành pháp-hành chánh-đạo có chánh-niệm, chánh-kiến, chánh-tinh-tấn, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp tam-giới ấy là khổ-đế là pháp nên biết, tham-ái là pháp nên diệt, diệt-đế là pháp nên chứng ngộ, chính pháp-hành chánh-đạo là pháp nên tiến hành.
 
Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế phát sinh đồng thời không trước, không sau.
 
4 loại trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp-hành Phật-giáo (paṭipattisāsana).
 
4 Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong Tứ Thánh-đế
 
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đã thực-hành 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế, đến khi hoàn thành mọi phận sự trong tứ Thánh-đế thì được luân chuyển đến 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.
 
4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế là quả của 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới chuyển đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới (không còn đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới nữa).
 
Khi ấy, khổ-Thánh-đế, đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã biết xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.
 
– Cũng đồng thời nhân sinh khổ-Thánh-đế, đó là tham-ái, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên diệt từng thời bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã diệt tận được mọi tham-ái xong bằng trí-tuệ- thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.
 
– Cũng đồng thời diệt khổ-Thánh-đế, đó là Niết-bàn, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã chứng ngộ xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.
 
– Cũng đồng thời pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, đó là pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên tiến hành bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã tiến hành xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ:
 
* Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong.
* Nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt tận mọi tham-ái xong.
* Diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ Niết-bàn xong.
* Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã tiến hành xong.
 
4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong 4 phận sự trong tứ Thánh-đế đồng thời cùng một lúc không trước, không sau.
 
Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế thì trí-tuệ-thành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã hoàn thành xong phận sự tiến hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chính yếu, còn 3 trí-tuệ-thành kia là phụ cũng hoàn thành xong phận sự trong mỗi Thánh-đế, cùng một lúc không trước không sau với trí-tuệ-thành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
 
4 loại trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong mọi phận sự tứ Thánh-đế, thuộc về pháp-thành Phật-giáo (paṭivedhasāsana), đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn gọi là nava-lokuttaradhamma: 9 pháp siêu-tam-giới.
 
= Quan hệ nhân quả của tam-tuệ-luân =
 
== Từ quả đến nhân, từ nhân đến quả ==
4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, đó là quả đã hoàn thành xong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.
 
4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đã được thực-hành đúng theo mỗi phận sự của mỗi Thánh-đế, đó là quả của 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế đã hiểu biết rõ mỗi chi-pháp của mỗi Thánh-đế.
 
Như vậy, 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế hiểu biết rõ đúng các chi-pháp của mỗi Thánh-đế làm nền tảng cơ bản, là nhân phát sinh ra quả 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đúng theo mỗi phận sự của mỗi Thánh-đế.
 
4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đã hoàn thành là nhân phát sinh ra quả là 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn; Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn; A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
 
Trí-tuệ quán triệt thấy rõ, biết rõ phạm-hạnh đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn phải tái- sinh kiếp nào khác nữa, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
 
Như trong đoạn kinh Chuyển-Pháp-Luân, Đức-Thế- Tôn khẳng định:
 
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi, “akuppā me vimutti, ayam’antimājāti, natthi dāni punabbhavo.”
 
Trí-tuệ quán triệt đã phát sinh đến Như-Lai, biết rõ rằng: “A-ra-hán Thánh-quả-tuệ giải thoát của Như-Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp hiện-tại này, không còn phải tái-sinh kiếp nào nữa.”
 
=== Bảng tóm tắt tam-tuệ-luân trong Tứ Thánh-đế ===
{| class="wikitable"
| rowspan="2" |Tam-Tuệ-Luân
| colspan="4" |Tứ Thánh-đế
|-
|Khổ-Thánh-đế
|Nhân sinh khổ-Thánh-đế
|Diệt khổ-Thánh-đế
|Pháp-hành diệt khổ-Thánh-đế
|-
|Trí-tuệ-học
|Sắc-pháp Danh-pháp
|Tham-ái
|Niết-bàn
|Bát-chánh-đạo
|-
|Trí-tuệ-hành
|Nên biết
|Nên diệt
|Nên chứng ngộ
|Nên tiến-hành
|-
|Trí-tuệ-thành
|Đã biết
|Đã diệt
|Đã chứng ngộ
|Đã tiến-hành
|}
{| class="wikitable"
| rowspan="2" |Tứ Thánh-đế
| colspan="3" |Tam-Tuệ-Luân
|-
|Trí-tuệ-học
|Trí-tuệ-hành
|Trí-tuệ-thành
|-
|Khổ-Thánh-đế
|Sắc-pháp danh-pháp
|Nên biết
|Đã biết
|-
|Nhân sinh khổ-Thánh- đế
|Tham-ái
|Nên diệt
|Đã diệt
|-
|Diệt khổ Thánh đế
|Niết-bàn
|Nên chứng ngộ
|Đã chứng ngộ
|-
|Pháp-hành diệt khổ-Thánh-đế
|Bát-Chánh-Đạo
|Nên tiến-hành
|Đã tiến-hành
|}
 
== Tam-tuệ-luân của 4 bậc Thánh-nhân ==
Mỗi bậc Thánh-nhân đều trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế, mỗi tuệ luân có năng lực trí-tuệ khác nhau đối với từng bậc Thánh-nhân.
 
– Bậc Thánh Nhập-lưu trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ nhất, Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 2 loại tham-ái là vibhavataṇhā: tham-ái hợp với đoạn-kiến và bhavataṇhā: tham-ái hợp với thường-kiến trong 4 tham tâm hợp tà-kiến (còn 4 tham tâm không hợp tà-kiến thì chưa diệt được).
 
– Bậc Thánh Nhất-lai trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ nhì, Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận được 1 loại tham-ái là kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ái loại thô cõi dục-giới trong 4 tham tâm không hợp tà-kiến (còn 5 đối-tượng ái loại vi-tế, thì chưa diệt được).
 
– Bậc Thánh Bất-lai trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ ba, Bất-lai Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận được 1 loại tham-ái là kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ái loại vi-tế cõi dục-giới trong 4 tham tâm không hợp tà-kiến (còn tham-ái trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới thì chưa diệt được).
 
– Bậc Thánh A-ra-hán trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ tư, A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận được bhavataṇhā: tham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, cõi trời sắc-giới phạm-thiên, cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên trong 4 tham tâm không hợp tà-kiến không còn dư sót.
 
Như vậy, bậc Thánh A-ra-hán diệt tận được hoàn toàn mọi tham-ái không còn dư sót.
 
= Tính chất 4 phận sự trong Tứ Thánh-đế =
4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế và 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế có tính chất liên quan đồng thời, không phận sự nào trước, không phận sự nào sau.
 
Bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo có ví dụ rằng:
 
Khi đốt một cây đèn dầu trong đêm tối có 4 sự việc xảy ra đồng thời, không trước, không sau:
 
* Ánh sáng tỏa ra.
* Bóng tối bị biến mất.
* Tim đèn bị cháy mòn.
* Dầu bị hao dần.
 
Cũng giống như trường-hợp 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế và 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế có tính chất đồng thời, không trước, không sau.
 
Trong kinh Gavampatisutta(4) có đoạn Ngài Trưởng- lão Gavampati thưa với chư tỳ-khưu rằng:
 
– Này chư pháp hữu! Tôi được nghe từ nơi Đức-Thế- Tôn dạy rằng:
 
<nowiki>*</nowiki> Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ khổ-Thánh-đế thì vị tỳ- khưu ấy cũng chứng ngộ nhân sinh khổ-Thánh-đế, diệt khổ-Thánh-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
 
<nowiki>*</nowiki> Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ nhân sinh khổ-Thánh-đế, thì vị tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ khổ-Thánh-đế, diệt khổ-Thánh-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
 
<nowiki>*</nowiki> Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ diệt khổ-Thánh-đế, vị tỳ- khưu ấy cũng chứng ngộ khổ-Thánh-đế, nhân sinh khổ-Thánh-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
 
<nowiki>*</nowiki> Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế thì vị tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ khổ-Thánh-đế, nhân sinh khổ-Thánh-đế, diệt khổ-Thánh-đế.
 
Như vậy, tứ Thánh-đế có sự liên quan về phận sự với nhau đồng thời không trước không sau.
 
= Phần Giải Thích =
 
== Bốn Trí-tuệ-hành phận sự trong Tứ Thánh-đế ==
Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế này, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-hành phận sự trong khổ-đế là chính, còn 3 trí-tuệ-hành phận sự trong 3 đế còn lại cũng thành tựu đồng thời không trước, không sau.
 
Thật vậy, khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ khi phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp nào, hoặc danh-pháp tam-giới nào là khổ-đế thì đồng thời tham-ái, nhân sinh khổ-đế không sinh trong sắc-pháp ấy, hoặc danh-pháp tam-giới ấy, đồng thời chứng ngộ sự diệt của tham-ái, nhân sinh khổ-đế nơi sắc-pháp ấy, hoặc danh-pháp tam-giới ấy.
 
Trong khi đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh-niệm, chánh-kiến, chánh-tinh-tấn, … khi phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ khổ-đế là pháp nên biết, nhân sinh khổ-đế là pháp nên diệt, diệt khổ-đế là pháp nên chứng ngộ, thì chính pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế đang được tiến-hành.
 
Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế có sắc-pháp, danh-pháp tam-giới đồng thời không trước không sau.
 
== Bốn Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự Tứ Thánh-đế ==
Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế này, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế có đối-tượng Niết-bàn là chính, còn 3 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong 3 Thánh-đế còn lại cũng hoàn thành xong phận sự trong 3 Thánh-đế đồng thời không trước không sau.
 
Thật vậy, khi hành-giả có trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đó là 4 Thánh-đạo-tuệ đã hoàn thành xong phận sự tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế thì:
 
– Đồng thời 4 Thánh-đạo-tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự biết khổ-Thánh-đế.
 
– Đồng thời 4 Thánh-đạo-tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự diệt tận được mọi tham-ái, nhân sinh khổ-Thánh-đế.
 
– Đồng thời 4 Thánh-đạo-tuệ và 4 Thánh-quả-tuệ đã hoàn thành xong chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.
 
– Đồng thời pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh- định đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, đã hoàn thành xong phận sự tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh- đế đó là:
 
– Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong.
 
– Nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt tận xong.
 
– Diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ Niết-bàn xong.
 
– Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã được tiến hành xong.
 
4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh- đế này đã hoàn thành xong 4 phận sự trong tứ Thánh-đế đồng thời không trước không sau.
 
== Vai trò 4 trí-tuệ-hành và 4 trí-tuệ-thành ==
Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn đầu, trí-tuệ-hành phận sự biết khổ-Thánh-đế đóng vai trò chính yếu, đó là trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là khổ đế, là pháp nên biết, thì trí-tuệ-hành phận sự của mỗi Thánh-đế còn lại, cũng được thành tựu phận sự đồng thời không trước không sau.
 
Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn cuối, trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự đã tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đóng vai trò chính yếu, đó là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, là hoàn thành xong phận sự đã tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, đã chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, thì trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong 3 Thánh-đế còn lại cũng được thành tựu phận sự đồng thời không trước không sau.
 
== Tứ Thánh-đế trong giáo-pháp của Đức-Phật ==
Tứ Thánh-đế là chân-lý của chư bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, tứ Thánh-đế là nền tảng căn bản, là pháp cốt lõi trọng yếu trong giáo-pháp của chư Phật quá-khứ, Đức- Phật hiện-tại và chư Phật vị-lai. Tứ Thánh-đế đó là:
 
Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, hay sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới.
 
– Trong giáo-pháp của Đức-Phật, tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới (cõi dục-giới, cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới) đúng theo chân-lý chỉ là khổ-đế (dukkhasacca) mà thôi, không có lạc đế.
 
– Tuy có thọ-lạc (sukhavedanā) nhưng thọ-lạc gọi là vipariṇāmadukkha: biến-chất-khổ, bởi vì thọ-lạc cũng sinh rồi diệt là vô-thường nên cũng chỉ là khổ-đế mà thôi.
 
– Trong tam-giới, tất cả các pháp-hữu-vi: sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới đều sinh rồi diệt nên có 4 trạng-thái là trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh.
 
Vậy, do nguyên-nhân nào cho là lạc trong đời này?
 
Thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới đều có 4 trạng-thái: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh, nhưng do 3 pháp-điên-đảo (vipallāsa) là tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là thường, lạc, ngã, tịnh.
 
Pháp-điên-đảo (vipallāsa) có 3 loại:
 
– Cittavipallāsa: Tâm-điên-đảo là biết sai, chấp lầm trong các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.
 
– Saññāvipallāsa: Tưởng-điên-đảo là tưởng sai, chấp lầm trong các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.
 
– Diṭṭhivipallāsa: Tà-kiến-điên-đảo là thấy sai, chấp lầm trong các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.
 
<nowiki>*</nowiki> Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái vô-thường, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là thường.
 
<nowiki>*</nowiki> Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái khổ, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là lạc.
 
<nowiki>*</nowiki> Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái vô-ngã, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là ngã.
 
<nowiki>*</nowiki> Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái bất-tịnh, nhưng do tâm-điên- đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là tịnh.
 
Như vậy, pháp-điên-đảo có 3 x 4 gồm có 12 loại. Sự thật chân-lý của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới chỉ là khổ-đế mà thôi, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo đảo ngược lại thật-tánh cho là lạc.
 
Vậy, lạc không phải là sự thật chân-lý, mà thuộc về lạc-điên-đảo (sukhavipallāsa). Như Đại-đức tỳ-khưu-ni Vajirā dạy rằng:
 
“Chỉ có khổ-đế sinh, khổ-đế trụ, khổ-đế diệt. Ngoài khổ-đế ra, không có gì sinh, không có gì trụ, không có gì diệt…”(4)
 
Cho nên, ngũ-uẩn chấp-thủ, hay sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới đều chỉ là khổ-đế mà thôi.
 
=== Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham-ái ===
Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại
 
<nowiki>*</nowiki> Nếu tâm tham phát sinh mà không được thỏa mãn như ý thì tâm sân phát sinh, không vừa lòng, làm cho khổ tâm.
 
<nowiki>*</nowiki> Nếu tâm tham phát sinh mà được thỏa mãn như ý thì phát sinh tâm tham chấp-thủ, cho là của ta, cũng làm nhân phát sinh tâm sầu não, lo sợ cũng làm khổ tâm.
 
Như Đức-Phật dạy trong Pháp-cú kệ rằng:
 
Taṇhāya jāyatī soko, taṇhāya jāyatī bhayaṃ. Taṇhāya vippamuttassa, natthi soko kuto bhayaṃ?(5)
 
Sự sầu não phát sinh do tham-ái, Sự lo sợ phát sinh do tham-ái, Bậc Thánh A-ra-hán diệt tận tham-ái, Không sầu não, từ đâu có lo sợ?
 
– Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp-sau Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái không còn dư sót, đến khi hết tuổi thọ, đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới. Ngoài bậc Thánh A-ra-hán ra, còn lại tất cả mọi chúng-sinh: nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên và gồm cả 3 bậc Thánh-nhân là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai vẫn còn tham-ái, nên vẫn còn phải khổ tái-sinh trong kiếp sau.
 
Chúng-sinh có ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 11 cõi dục-giới và trong 15 cõi sắc-giới, hay chúng-sinh có tứ-uẩn (thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) trong 4 cõi vô-sắc-giới, hay chúng-sinh chỉ có nhất-uẩn (sắc-uẩn) trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên, cũng đều có khổ-đế, nhưng chỉ khác nhau là khổ nhiều, hoặc khổ ít mà thôi.
 
Bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới, mà chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
 
Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh kiếp sau 1 kiếp nữa mà thôi, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra- hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
 
Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn không tái-sinh kiếp sau trở lại cõi dục-giới, mà chỉ tái-sinh kiếp sau trên cõi trời sắc-giới, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tại cõi trời ấy.
 
Vì vậy, tham-ái là nhân sinh khổ-đế.
 
=== Diệt khổ-Thánh-đế, đó là Niết-bàn, là pháp diệt tận được tham-ái, nhân sinh khổ-Thánh-đế ===
Niết-bàn có hai loại đó là:
 
– Hữu-dư Niết-bàn (Sa upādisesanibbāna) là Niết- bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là kilesaparinibbāna: mọi phiền-não Niết-bàn, nhưng ngũ- uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
 
– Vô-dư Niết-bàn (Anupādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là khandha- parinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn nghĩa là ngũ-uẩn diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào tái-sinh kiếp sau nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
 
Niết-bàn có ba loại theo đối-tượng thiền-tuệ đó là:
 
-Vô-hiện-tượng Niết-bàn (Animittanibbāna) là Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-ngã, do năng lực tín-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tấn-pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của giới, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-hiện-tượng Niết-bàn (animittanibbāna) Niết-bàn không có hiện-tượng các pháp-hữu-vi.
 
– Vô-ái Niết-bàn (Appaṇihitanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái vô-thường và trạng-thái vô-ngã, do năng lực định-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của định, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-ái Niết-bàn (appaṇihitanibbāna) Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.
 
– Chân-không Niết-bàn (Suññatanibbāna) là Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ biết rõ trạng-thái vô-ngã (anattalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-thường, do năng lực tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ), hoặc do năng-lực của tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna) Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.
 
Vì vậy, Niết-bàn là pháp diệt khổ-Thánh-đế.
 
=== Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, đó là pháp-hành bát-chánh-đạo, là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt Khổ-Thánh-đế ===
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới. Khi ấy, 4 Thánh-đạo-tâm hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm đã hoàn thành xong 4 phận sự:
 
* Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã biết xong.
* Nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận mọi tham-ái xong.
* Diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã chứng ngộ Niết-bàn xong.
* Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì 4 Thánh-đạo-tâm có pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh đã tiến hành xong.
 
Vì vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.
 
Tứ Thánh-đế là nền tảng, là cốt lõi chính yếu trong giáo-pháp của Chư Phật. Vì vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ ban đầu dù có những đối-tượng thiền-tuệ khác nhau như thân, thọ, tâm, pháp, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), sắc-pháp, danh-pháp tam- giới, v.v… đến giai đoạn cuối cùng cũng đều đạt đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, mới chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
 
== Nhân quả liên quan của Tứ Thánh-đế ==
Chân-lý tứ Thánh-đế có nhân quả liên quan với nhau như sau:
 
– Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, hay sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới (dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới), là quả của nhân sinh khổ-Thánh-đế.
 
– Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham-ái là nhân-dẫn dắt tái-sinh kiếp sau (taṇhā ponobbhavikā).
 
– Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn không thuộc về quả của một nhân nào, bởi vì Niết-bàn là pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) là pháp hoàn toàn không do một nhân duyên nào cấu tạo.
 
– Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.
 
Như vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo là nhân đạt đến Niết-bàn (diệt khổ-Thánh-đế) không phải là nhân sinh Niết-bàn, và diệt khổ-Thánh-đế (Niết-bàn) cũng không phải là quả của pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, mà chỉ là đối-tượng siêu-tam-giới của pháp-hành bát-chánh-đạo (đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm) dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế mà thôi.
 
Ví dụ nôm na: Con đường dẫn đến kinh-đô.
 
– Con đường ví như pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Niết-bàn).
 
– Kinh-đô ví như Niết-bàn là pháp diệt khổ-Thánh-đế.
 
Con đường dẫn đến kinh-đô, chứ không phải là nhân sinh kinh-đô.
 
Cũng như vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Niết-bàn) không phải nhân sinh Niết-bàn (diệt khổ-Thánh-đế), mà chỉ là nhân đạt đến Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế mà thôi.
 
==Xem thêm==
Hàng 808 ⟶ 94:
* {{Citation| last =Harvey | first =Peter | year =1990 |title =Introduction to Buddhism | publisher =Cambridge University Press}}
*[[K.R. Norman|Norman, K.R.]] (1982). "The Four Noble Truths: a problem of Pali syntax" in L.A. Hercus ''et al.'' (ed.), ''Indological and Buddhist Studies: Volume in Honour of Professor J.W. de Jong on his Sixtieth Birthday''. Canberra, pp.&nbsp;377–91.
* {{Citation| last= Thich Nhat Hanh | year =1991 | title =Old Path White Clouds| publisher = Parallax Press}}
* {{Citation| last= Thich Nhat Hanh | year =1999 | title =The Heart of the Buddha's Teaching | publisher = Three River Press}}
* {{Citation| last= Thich Nhat Hanh | year =2012 | title =Path of Compassion: Stories from the Buddha's Life | publisher = Parallax Press}}
* {{Citation| last= Walpola Rahula | year =2007| title =What the Buddha Taught| publisher = Grove Press, Kindle Edition}}
*Tam Bảo, Nền Tảng Phật Giáo, Tỳ Khưu Hộ Pháp, NXB 2019
 
[[Thể loại:Phật Thích-ca]]