Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trợ giúp:Chỗ thử”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thay cả nội dung bằng “{{Thể loại trống}}”
Thẻ: Thay thế nội dung Đã bị lùi lại Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 1:
{{Thể loại trống}}
= Người Thượng =
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
[[Người Thượng#mw-head|Bước tới điều hướng]][[Người Thượng#searchInput|Bước tới tìm kiếm]]Cuốn tập đọc song ngữ Việt-[[Kơho]] do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản năm 1959 thời [[Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam|Đệ Nhất Cộng hòa]] với sự hợp tác của Phái bộ Kinh tế Hoa Kỳ
 
'''Người Thượng''' là danh từ gọi chung những nhóm sắc tộc bản địa sinh sống tại khu vực bao gồm [[Miền Trung (Việt Nam)|miền Trung]] Việt Nam (bao gồm cả Vùng Đông Nam Bộ, khu vực Tây Nguyên và dãy Trường Sơn) và một phần lãnh thổ của [[Campuchia]] và Lào. Những dân tộc này gồm [[Người Ba Na|Ba Na]], [[Người Jarai|Jarai]], [[Người Ê Đê|Ê đê]], [[Người Cơ Ho|Cơ Ho]], [[Mạ]], [[Người Xơ Đăng|Xơ Đăng]], [[Người M'Nông|Mơ Nông]]..., nhóm các dân tộc [[Khmer Loeu]] gồm người Tampuan, người Kreung, [[người Kuy]] ở Campuchia và người Mro ở [[Miến Điện]].
 
Thuật từ '''Montagnard''' vốn có nghĩa là "người miền núi" trong [[tiếng Pháp]], được dùng với nghĩa như hiện nay từ [[thời Pháp thuộc]]. Trong khi đó '''Đêga''' là cách gọi có nguồn gốc bản địa.
 
''Thượng'' có nghĩa là ở trên, ''người Thượng'' là người ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống tại ''Miền Thượng'', sau này cũng gọi là Cao nguyên Trung Phần, hay [[Tây Nguyên]]; từ "người Thượng" theo nghĩa rộng cũng có thể đề cập đến tất cả các dân tộc thiểu số ở miền núi Việt Nam nói chung. Thời [[Việt Nam Cộng hòa]], chính sách dân tộc dành cho miền Thượng được gọi là ''Thượng vụ''.
 
== Mục lục ==
 
* [[Người Thượng#Ch%E1%BB%AF%20%22Th%C6%B0%E1%BB%A3ng%22%20trong%20v%C4%83n%20b%E1%BA%A3n%20v%C3%A0%20c%E1%BA%A5p%20ch%C3%ADnh%20quy%E1%BB%81n|1Chữ "Thượng" trong văn bản và cấp chính quyền]]
** [[Người Thượng#Th%E1%BB%9Di%20Ph%C3%A1p%20thu%E1%BB%99c|1.1Thời Pháp thuộc]]
** [[Người Thượng#Th%E1%BB%9Di%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Vi%E1%BB%87t%20Nam|1.2Thời Quốc gia Việt Nam]]
** [[Người Thượng#Th%E1%BB%9Di%20%C4%90%E1%BB%87%20Nh%E1%BA%A5t%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a|1.3Thời Đệ Nhất Cộng hòa]]
** [[Người Thượng#Th%E1%BB%9Di%20k%E1%BB%B3%20qu%C3%A2n%20qu%E1%BA%A3n%201963-1967|1.4Thời kỳ quân quản 1963-1967]]
** [[Người Thượng#Th%E1%BB%9Di%20%C4%90%E1%BB%87%20Nh%E1%BB%8B%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a|1.5Thời Đệ Nhị Cộng hòa]]
* [[Người Thượng#Xem%20th%C3%AAm|2Xem thêm]]
* [[Người Thượng#Tham%20kh%E1%BA%A3o|3Tham khảo]]
* [[Người Thượng#Li%C3%AAn%20k%E1%BA%BFt%20ngo%C3%A0i|4Liên kết ngoài]]
 
== Chữ "Thượng" trong văn bản và cấp chính quyền[sửa | sửa mã nguồn] ==
 
=== Thời Pháp thuộc[sửa | sửa mã nguồn] ===
Bài chi tiết: [[Xứ Thượng Nam Đông Dương]]
 
=== Thời Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn] ===
Bài chi tiết: [[Hoàng triều Cương thổ]]
 
=== Thời Đệ Nhất Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn] ===
Năm [[1956]], [[Tổng thống Việt Nam Cộng hòa|Tổng thống]] [[Ngô Đình Diệm]] của nền [[Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam]] cho thành lập ''Văn phòng Cố vấn Thượng Vụ'' để góp ý về những vấn đề liên quan đến cao nguyên miền Thượng. Năm [[1957]], Văn phòng Cố vấn Thượng Vụ được nâng cấp lên thành ''Nha Công tác Xã hội Miền Thượng'' trực thuộc Phủ Tổng thống, trụ sở đặt tại [[Huế]]. Năm [[1958]], Phòng Xã hội được thành lập tại Tây Nguyên với mục đích chính giúp học sinh người sắc tộc được theo học như [[người Kinh]].
 
Mặc dù chính sách đề ra cố gắng giúp người Thượng hội nhập và đề cao khái niệm quốc gia nhưng cũng vướng vào hậu quả gây thiệt hại [[kinh tế]] và tổn thương tự ái của các sắc tộc vùng [[Cao nguyên Trung phần]]. Phong trào [[BAJARAKA]] bộc phát như một phản ứng của người Thượng.
 
=== Thời kỳ quân quản 1963-1967[sửa | sửa mã nguồn] ===
Sau khi nền Đệ Nhất Cộng hòa sụp đổ, năm [[1964]] Nha Công tác Xã hội miền Thượng đổi thành ''Nha Ðặc trách Thượng Vụ'' trực thuộc Bộ Quốc phòng và sau đó được nâng cấp lên thành ''Phủ Ðặc ủy Thượng vụ''.
 
Để giúp hàn gắn sắc tộc Kinh-Thượng, chính phủ cho tái lập tòa án phong tục và luật tục của người Thượng ở bảy tỉnh [[Tuyên Đức]], [[Lâm Đồng]], [[Quảng Đức]], [[Darlac]], [[Phú Bổn]], [[Pleiku (tỉnh)|Pleiku]] và [[Kontum]].
 
=== Thời Đệ Nhị Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn] ===
Năm 1969, [[Bộ Sắc tộc]] (Bộ Phát triển Sắc tộc) được thành lập ngay trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa thời [[Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam|Đệ Nhị Cộng hòa]] do một người Thượng lãnh đạo, và có chức năng tương đương các bộ khác trong chính phủ. Tổng trưởng Bộ Sắc tộc lần lượt là các ông [[Paul Nưr]], [[Ya Ba]], cuối cùng là ông [[Nay Luett]] (Nay Louette), một lãnh tụ [[Jarai (định hướng)|Gia Rai]], cho đến khi [[Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975|Việt Nam thống nhất năm 1975]].
 
== Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn] ==
 
* [[Đàn áp người Thượng tại Việt Nam]]
* [[Tổ chức Quỹ người Thượng]]
 
== Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn] ==
 
* Lê Đình Chi. ''Người Thượng Miền Nam Việt Nam''. Gardena, CA: Văn Mới, 2006.
 
# '''[[Người Thượng#cite%20ref-1|^]]''' Lê Đình Chi. Tr 306
# '''[[Người Thượng#cite%20ref-2|^]]''' Nhìn lại phong trào BAJARAKA
 
== Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn] ==
 
* Nguyễn Văn Huy, 2001, Sự hình thành cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung.
 
[[Đặc biệt:Thể loại|Thể loại]]:
 
* [[:Thể loại:Người Tây Nguyên|Người Tây Nguyên]]
* [[:Thể loại:Người Thượng|Người Thượng]]
* [[:Thể loại:Các dân tộc Việt Nam|Các dân tộc Việt Nam]]
* [[:Thể loại:Tây Nguyên|Tây Nguyên]]
* [[:Thể loại:Người bản địa Đông Nam Á|Người bản địa Đông Nam Á]]