Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giun đất”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n replaced: , → ,, LOẠI → Loại, . <ref → .<ref using AWB
Dòng 32:
'''Giun đất''' là tên thông thường của các thành viên lớn nhất của phân lớp [[Oligochaeta]] (thuộc một lớp hoặc phân lớp tùy theo tác giả phân loại) trong ngành [[Ngành Giun đốt|Annelida]]. Chúng có [[cấu trúc cơ thể]] ống trong ống, được phân đoạn bên ngoài với phân đoạn bên trong tương ứng và thường có các [[lông cứng]] trên tất cả các phân đoạn.<ref>{{Cite book |last1=Edwards |first1=Clive A. |last2=Lofty |first2=J. R. |title=Biology of Earthworms |publisher=Chapman & Hall |year=1977 |isbn=0-412-14950-8 |location=London |pages=preface}}</ref>
 
Giun đất thường sống ở những khu vực [[đất]] ẩm ướt, ruộng đồng, nương rẫy, đất hoang sơ,... <ref>{{Cite book |last1=Coleman |first1=David C. |last2=Crossley |first2=D.A. |last3=Hendrix |first3=Paul F. |title=Fundamentals of Soil Ecology |publisher=Elsevier Academic Press |year=2004 |isbn=0-12-179726-0 |location=Amsterdam; Boston |pages=170}}</ref> nơi có nhiều mùn hữu cơ và chúng ăn mùn hữu cơ.<ref>{{Cite journal |author=Bonkowski, Griffiths, and Ritz |date=November 2000 |title=Food preferences of earthworms for soil fungi |journal=Pedobiologia |volume=44-6 |issue=6 |pages=667 |doi=10.1078/S0031-4056(04)70080-3 }}</ref> Các chất hữu cơ này bao gồm chất thực vật, [[động vật nguyên sinh]] sống, [[luân trùng]], [[tuyến trùng]], [[vi khuẩn]], [[nấm]] và các vi sinh vật khác.<ref>{{Cite book |last1=Lofty |first1=Clive A. |last2=Lofty |first2=J. R. |title=Biology of Earthworms |publisher=Chapman & Hall |year=1977 |isbn=0-412-14950-8 |location=London |pages=80}}</ref> Hệ tiêu hóa của giun đất chạy dọc theo chiều dài cơ thể.<ref>{{Cite book|last1=Edwards|first1=Clive A.|title=Biology of Earthworms|last2=Lofty|first2=J.R.|publisher=Chapman & Hall|year=1977|isbn=0-412-14950-8|location=London|pages=19}}</ref> Chúng có vai trò to lớn đối với ngành [[nông nghiệp]] do chúng làm đất tơi xốp và tăng độ phì nhiêu của đất. Giun đất còn là thức ăn cho [[gia súc]] và [[gia cầm]].
 
Chúng là loài động vật không xương sống, thuộc [[Ngành Giun đốt]]. Giun đất là các loài lưỡng tính và có một bộ phận đặc trưng gọi là bao sinh dục. Chúng sử dụng bộ phận này trong quá trình giao phối. Sau khi giao phối thành công, bao này sẽ chứa đầy trứng đã thụ tinh và sẽ được giun "tháo" ra, từ đó nở ra thế hệ giun tiếp theo. Giun đất có khả năng phục hồi lại toàn bộ cơ thể đã mất nếu như phần đầu còn nguyên vẹn, nhưng không như mọi người vẫn lầm tưởng, chúng không có khả năng tạo ra các cá thể mới khi bị chia nhỏ thành nhiều đoạn.
 
= PHÂN LOẠILoại TRÙN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM =
Trùn đất (earthworms) là tên gọi chung cho tất cả các loại trùn sinh sống trên địa cầu này. Trên thế giới hiện có khoảng 4.400 loài trùn đất khác nhau đã được định danh. Dựa vào kích thước và tập tính loài, chúng được phân thành 3 nhóm chính:  EPIGEIC (eisenia foetida, eudrilus eugenie (nigerian), perionyx excavatus etc.), ENDOGEIC (pentoscolex sps. eutopeius sps. drawida sps etc.) và ANECEIC (polypheretima elongata, lampito maruti etc.).
 
Dòng 49:
 
== CÁC GIỐNG TRÙN TẠI VIỆT NAM ==
Ở Việt Nam, theo Trung tâm nghiên cứu động vật đất (Trường Đại hoạc Sư phạm Hà Nội) thì chúng ta đã tìm ra trên 170 loài. Chúng phân bố rất rộng và có nhiều đặc tính khác nhau. Một số loài sống trong nước, còn đa số sống ở những nơi đất ẩm hoặc những chỗ có thảm thực vật dày. Có những loài rất nhỏ, cơ thể chỉ nặng khoảng 10mg10&nbsp;mg. Trong lúc đó, ở Australia có loài trùn đất khổng lồ dài tới 1,4m và nặng gần nửa cân! Tuy nhiên, điều mà bà con ta quan nhất là nên nuôi loài nào.
 
Vào những ngày mưa to hoặc những hôm trở trời, thường thấy có những con giun (trùn) lớn bò lên mặt đất. Chúng to bằng ngón tay út và dài như chiếc đũa. Đây là các bác “thợ cày” rất quý của chúng ta. Người ta gọi đó là giun khoang. Suốt ngày chúng đào bới trong đất để kiếm thức ăn. Hoạt độnglàm cho đất tơi xốp tạo nhiều biến đổi có lợi cho cây trồng. Cơ thể giun là một ống tròn, một đầu là miệng và đầu kia là hậu môn. Chúng ngoạm đất vào mồm rồi nuốt chửng. Khi đi qua ống tiêu hóa, các chất hữu cơ , chất mùn sẽ được chúng đồng hóa, hấp thụ. Sau đó, các chất còn lại sẽ bị tống ra ngoài qua hậu môn. Đó là phân giun (phân trùn – vermicast). Phân giun là một loại đất rất tốt. Chúng tơi xốp và giữ được ẩm. Mặt khác, các dạng phân lân và phân kali khó tiêu, sau khi đi qua bụng giun đã trở thành những dạng dễ tiêu mà cây hấp thụ được. Tuy nhiên, loài giun này chưa phải là đối tượng để nuôi. Các loài giun đất dùng để nuôi phải có hàm lượng đạm cao, có tốc độ sinh trưởng nhanh, sống được trong những điều kiện chật hẹp và mau chóng thích nghi với những môi trường mới.
 
Trong hàng nghìn loài giun, người ta chỉ tìm được 6 – 7 loài nên nuôi. Mỗi nước lại thích nuôi một loài riêng. Tuy nhiên, loài giun quế hay còn gọi là giun đỏ (Perionyx escavatus) được nhiều nơi ưa nuôi. Ở nước ta, chúng tôi cũng khuyến khích nên nuôi loài giun này. Hiện tại Trại trùn quế SFARM đã phát triển việc chăn nuôi giun quế ở quy mô công nghiệp, tạo ra nguồn phân giun ổn định phục vụ cho trồng trọt.
 
 
== Di chuyển ==
Hàng 66 ⟶ 65:
== Dinh dưỡng ==
 
Giun đất ăn vụn thực vật và mùn đất. Hệ tiêu hoá chia làm nhiều phần, thức ăn lấy từ miệng, chứa ở diều, nghiền nhỏ ở dạ dày cơ, được tiêu hoá nhờ enzim tiết ra từ ruột tịt và hấp thu qua thành ruột.
 
Sự trao đổi khí (hô hấp) được thực hiện qua da.
Hàng 78 ⟶ 77:
== Liên kết ngoài ==
{{thể loại Commons|Oligochaeta}}
 
[[Thể loại:Hoàn toàn không có nguồn tham khảo]]
[[Thể loại:Haplotaxida|L]]