Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kinh tế thị trường”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 3:
'''Kinh tế thị trường''' là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
==Ưu điểm==
Trong nền kinh tế thị trường, nếu [[nguyên lý cung - cầu|lượng cầu]] hàng hóa cao hơn [[nguyên lý cung - cầu|lượng cung]], thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất [[lợi nhuận]] cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
Ở nền kinh tế thị trường thì con người
Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước mình.
▲Ở nền kinh tế thị trường thì con người thỏa sức sáng tạo, với mong muốn tìm ra phương án cải tiến cho phương thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng con người, nâng cao quy trình quản lý kinh doanh, cũng là nơi để đào thải những quản lý chưa đạt được hiệu quả cao. Kinh tế thị trường còn tạo ra một môi trường kinh doanh dân chủ, tự do, công bằng.
▲Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước mình. Sự phát triển kinh tế với tốc độ cao đáng kinh ngạc của bốn "con rồng" Châu Á (Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, và Đài Loan) đã thức tỉnh các quốc gia chậm phát triển với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Họ nhận ra rằng, một hệ thống kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân có khả năng thúc đẩy sự tăng trưởng tốt hơn là dựa vào nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Các nền kinh tế thị trường có xu hướng cung cấp nhiều việc làm hơn. Một ví dụ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, các doanh nghiệp có ít hơn 20 nhân viên ở Hoa Kỳ chiếm 89,6% lực lượng lao động tại nước này. Với nền kinh tế thị trường, sự tập trung vào đổi mới cho phép các doanh nghiệp nhỏ này tìm ra những thị trường ngách và cung cấp các công việc với mức lương cao ở địa phương.
==Nhược điểm==
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới ''bất bình đẳng trong xã hội và quan niệm.'' Người giàu sẽ sử dụng lợi thế của mình để chiếm hữu ngày càng nhiều của cải và quyền lực hơn, trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Sau một thời gian cạnh tranh ''"cá lớn nuốt cá bé"'', các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các hãng sản xuất lớn mạnh hơn thôn tính. Cuối cùng chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất lớn có tiềm lực mạnh, họ sẽ thâu tóm phần lớn các ngành kinh tế, toàn bộ nền kinh tế sẽ chỉ do một vài nhà [[tài phiệt]] nắm quyền thao túng. Kinh tế thị trường sẽ dần biến thành kinh tế [[độc quyền]] chi phối.
Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất liên tục, sớm muộn sẽ dẫn đến mất cân bằng cung cầu. Trong giai đoạn đầu, các công ty đầu tư phát triển sản xuất khiến nguồn cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng với cung. Hiện tượng này tích lũy qua nhiều năm sẽ dẫn đến [[khủng hoảng thừa]]: hàng hoá bị ứ đọng, giá cả sụt giảm, do không bán được hàng để thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt doanh nghiệp phá sản và dẫn đến [[khủng hoảng kinh tế]]. Cuộc [[Đại khủng hoảng]] ở Mỹ năm 1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá mức trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.
Hàng 24 ⟶ 18:
Đó là chưa kể vấn đề về sự sai và sót trong thông tin có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa [[tổng cung]] và [[tổng cầu]]. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng [[thất nghiệp]] và [[lạm phát]].
Trong một số tình huống, thị trường tự do đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. Việc quá đề cao tính thị trường mà
Để cơ chế thị trường không phát sinh tiêu cực, thì các điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin minh bạch, không có các ảnh hưởng ngoại lai, không có [[đầu cơ]], không có vi phạm [[đạo đức]] kinh doanh, không có lách luật v.v... Tuy nhiên, trong thực tế không có nước nào đáp ứng hoàn hảo các điều kiện này, nên có những trường hợp cơ chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế, thậm chí góp phần gây ra [[khủng hoảng kinh tế]] hoặc [[khủng hoảng nhân đạo]]. Khi đó sẽ có [[thất bại thị trường]]. Một ví dụ tiêu biểu là [[Hoa Kỳ]]: nền y tế nước này hoàn toàn do [[tư nhân]] kiểm soát, bệnh viện và đội ngũ bác sĩ Hoa kỳ có chất lượng hàng đầu thế giới, nhưng viện phí ở Hoa Kỳ cũng đắt đỏ bậc nhất thế giới. Nếu không có bảo hiểm y tế, một bệnh nhân có thể tiêu tốn hàng trăm nghìn USD cho mỗi lần chữa bệnh, kết quả là những người thu nhập thấp sẽ không được hệ thống y tế này cứu chữa<ref>http://kinhtedothi.vn/dai-dich-covid-19-va-nhung-diem-yeu-kho-ngo-cua-he-thong-y-te-cac-nuoc-phuong-tay-377759.html</ref>. Hoạt động xét nghiệm y tế ở Hoa Kỳ không được kiểm soát trên toàn quốc, nước này cũng không có hệ thống chăm sóc sức khỏe tập trung và xét nghiệm y tế tập trung do chính phủ quản lý. Vì những điểm yếu này, khi [[Đại dịch COVID-19]] xảy ra, Hoa Kỳ đã trở thành nước bị ảnh hưởng nặng nhất thế giới với hàng chục triệu ca nhiễm bệnh, trong đó vài trăm nghìn người đã chết<ref>https://thanhtra.com.vn/quoc-te/COVID19-phoi-bay-nhung-diem-yeu-trong-he-thong-y-te-cua-My-161847.html</ref>
Trong điều kiện [[Kinh tế chiến tranh]] thì kinh tế thị trường lại không hiệu quả bằng [[kinh tế kế hoạch]]. Khi xảy ra chiến tranh, kinh tế thị trường không cho phép tập trung các nguồn tài nguyên, năng lực sản xuất vào mục tiêu quan trọng nhất là sản xuất quốc phòng (bởi các nhà sản xuất chỉ quan tâm đến lợi nhuận của bản thân, họ sẽ vẫn tập trung sản xuất các mặt hàng khan hiếm như thực phẩm, hàng tiêu dùng chứ không ưu tiên sản xuất trang bị cho quân đội). Một số nhà sản xuất thậm chí sẽ đi ngược lại lợi ích của quốc gia, ví dụ như bán vũ khí, bí mật công nghệ cho nước đối thủ, hoặc nhận [[hối lộ]] của nước đối thủ để ngừng sản xuất hàng hóa thiết yếu cho đất nước. Do vậy, nếu xảy ra chiến tranh, Chính phủ các nước thường chuyển đổi sang nền kinh tế kế hoạch để ngăn chặn tình trạng khủng hoảng xã hội, huy động thêm ngân sách để mở rộng quy mô [[quân đội]], đồng thời tập trung tài nguyên cho sản xuất quốc phòng và [[Chiến tranh đa dạng|khôi phục trật tự kinh tế và xã hội]]. Tiêu biểu như [[Hoa Kỳ]]: khi [[Thế chiến 2]] nổ ra, nước này đã đình chỉ một phần nền kinh tế thị trường để chuyển sang [[Kinh tế chiến tranh]]. Trong thời kỳ cao điểm của Thế chiến 2, gần 40% GDP Hoa Kỳ là để cung ứng cho chiến tranh. Chính phủ ưu tiên cho các ngành sản xuất phục vụ cho mục đích quân sự, gần như tất cả những yếu tố đầu vào (nguyên liệu, nhân công) được phân bổ cho sản xuất chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được phân phối cố định theo [[tem phiếu]], giá cả và tiền lương được Chính phủ kiểm soát, và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng bị cấm sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được Chính phủ Mỹ điều động vào quân đội<ref>{{chú thích sách|author=Baten, Jörg|title=A History of the Global Economy. From 1500 to the Present.|date=2016|publisher=Cambridge University Press|page=97f|isbn=9781107507180}}</ref> Các nước tham chiến khác như [[Anh]], [[Đức]], [[Nhật]], [[Ý]]... cũng thi hành những chính sách tương tự.
Trong thực tế hiện nay, để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, không có nước nào có một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do - tự phát, các chính phủ luôn can thiệp vào thị trường dù ít hay nhiều. Cũng như vậy, không có nước nào có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (ngay cả kinh tế [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên]] cũng có 1 phần nhỏ là kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình). Thay vào đó, hầu hết các nước có nền [[kinh tế hỗn hợp]]. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường và yếu tố can thiệp của Nhà nước nhiều hay ít. Ví dụ như tại [[Hoa Kỳ]], tuy có nền kinh tế chủ yếu là thị trường tư nhân nhưng nước này vẫn có [[Đạo luật Sản xuất Quốc phòng]] (DPA), cho phép tổng thống Mỹ có quyền yêu cầu doanh nghiệp buộc phải nhận và ưu tiên đơn hàng chế tạo vật liệu, thiết bị được coi là cần thiết với quốc phòng, dù điều đó có thể gây thua lỗ cho doanh nghiệp, Tổng thống Mỹ cũng có quyền quy định những mặt hàng bị cấm tích trữ hoặc đầu cơ tăng giá.
==Xem thêm==
|