Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh cục bộ (Chiến tranh Việt Nam)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
revert
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Lùi lại thủ công Đã bị lùi lại
Dòng 19:
'''Chiến tranh cục bộ''' là một [[chiến lược quân sự]] của [[Hoa Kỳ]] trong [[Chiến tranh Việt Nam]] (giai đoạn 1965-1967). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa lực, công nghệ và quân số của lực lượng viễn chinh Mỹ để đè bẹp [[quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng miền Nam]], đồng thời điều động lực lượng không quân [[chiến dịch Sấm Rền|đánh phá miền Bắc]], thiết lập ảnh hưởng lâu dài của [[Hoa Kỳ|Mỹ]] lên [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]] thông qua [[Việt Nam Cộng hòa|chế độ Việt Nam Cộng hòa]]. Đây được đánh giá là giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến.
 
Tên gọi ''Chiến tranh cục bộ'' xuất phát từ quan điểm đây là một dạng [[chiến tranh hạn chế]] trong chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt". Quy mô của chiến tranh được đẩy lên rất cao với lượng bom đạn được Hoa Kỳ sử dụng còn nhiều hơn [[chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]]), nhưng phạm vi chiến tranh được giới hạn ở mục tiêu "chống nổi dậy" (counter insurgency). Người Mỹ muốn tiêu diệt [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng miền Nam]], nhằm đánh gục ý chí chiến đấu của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], buộc họ chấp nhận những điều kiện thỏa hiệp mà có lợi cho nước Mỹ.{{fact|date = ngày 6 tháng 1 năm 2013}}
 
==Hoàn cảnh==
Dòng 48:
==Nội dung==
 
Người Mỹ cho rằng dù chương trình bình định đã phá sản, nhưng chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn kiểm soát phần lớn các khu vực đông dân cư, thành phố, thị trấn, và các tuyến giao thông chiến lược. Các nước lệđồng thuộcminh Hoa Kỳ như [[Nhật Bản]], [[Thái Lan]], hay [[Hàn Quốc]] buộc phải ủng hộ chính sách can thiệp của Mỹ. Những phản ứng của [[khối xã hội chủ nghĩa]] lúc bấy giờ được Mỹ đánh giá là có "mức độ", chưa đáng lo ngại đối với chiến lược ở Việt Nam.
 
Lý thuyết về "chiến tranh cục bộ" của Hoa Kỳ xác định rằng một khi các "hoạt động lật đổ" ở Việt Nam lên đến đỉnh điểm và "lực lượng lật đổ" tổ chức được những đơn vị chủ lực mạnh thì phải dùng đến sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, trực tiếp xâm lược ở mức độ hạn chế. Họ cho rằng điều này có thể tiêu diệt được quân chủ lực còn non trẻ của đối phương trong thời gian ngắn nhất. Khi tiến hành chiến tranh cục bộ, người Mỹ hy vọng có cớ để huy động quân viễn chinh trong tình huống nguy cấp, từng bước phản công giành lại quyền chủ động trên chiến trường. Như vậy, khi đưa quân viễn chinh tham chiến trên quy mô lớn, tính toán của Mỹ không chỉ giới hạn ở việc gỡ thế thua, cứu nguy sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn mà còn giành thắng lợi quyết định, nhanh chóng đảo lộn thế cờ.
Dòng 64:
Với mục tiêu, kế hoạch, biện pháp trên, chiến lược "chiến tranh cục bộ" có một số đặc điểm khác với chiến lược "[[kế hoạch Staley-Taylor|chiến tranh đặc biệt]]".
 
- Đặc biệt chủ yếu là Mỹ không phải chỉ lấy lực lượng vũ trang bản xứ làm công cụ tiến hành chiến tranh, mà các tung độiđưa quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp tác chiến chống lực lượng vũquân trangGiải phóng nhânmiền dânNam Việt Nam. Quân viễn chinh Mỹ được huy động với quy mô lớn trong thời gian ngắn, kèm theo là một lượng lớn khí tài, vật tư, và bom đạn.
 
- Một điểm nữa là quânQuân viễn chinh Mỹ tuy là con át chủ bài, là lực lượng nòng cốt, nhưng [[quân lực Việt Nam Cộng hòa]] vẫn được tận dụng như một lực lượng hỗ trợ quan trọng. Quân Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu để "tìm diệt" chủ lực, quân VNCHViệt Nam Cộng hòa là lực lượng chiếm đóng để "bình định" lãnh thổ.
 
[[Tập tin:US Army UH-1Ds near Saigon 1965.jpg|nhỏ|trái|220px|Chiến thuật [[Trực thăng vận]] lần đầu tiên được Mỹ sử dụng trong chiến tranh]]
 
Quân viễn chinh Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa đều có vai trò chiến lược nhằm áp đảo quân số. Cố vấn quân sự Mỹ tính toán mỗi tỉnh miền nam Việt Nam có 10-10000 đến 20.000 quân Việt Nam Cộng hòa trànđóng vềtại các xã ấp, tiêu diệt cơ sở chính trị, đẩy chủ lực quân Giải phóng lên các vùng hẻo lánh; cùng với sức mạnh không quân hiện đại của Mỹ và số lượng bom đạn khổng lồ, haisẽ miền nam-bắc bị tàn phá, bị chia cắt,khiến chủ lực quân Giải phóng sẽ bị đẩy vào thế khốn quẫn. Từ đó những đơn vị tinh nhuệ Mỹ sẽ giáng đòn quyết định "bẻ gãy xương sống" và đánh tan quân Giải phóng; nếu còn, họ cũng sẽ bị phân tán mà hoạt động riêng lẻ, khó thay đổi cục diện chiến tranh và đặc biệt là dễ bị lần lượt tiêu diệt khi cần thiết.
 
Vì hạn chế lực lượng quân Mỹ, cho nên Hoa Kỳ chú trọng củng cố quân đội bảnViệt xứNam Cộng hòa. Mỹ cho rằng nếu quân lực Việt Nam Cộng hòa được trang bị hiện đại, sẽ tạo ưu thế về binh lực, hoả lực, và sức cơ động để áp đảo đối phương; giúp ngườiViệt MỹNam Cộng hòa chiến thắng trong thời gian ngắn.
 
Nói chung, chiến tranh cục bộ với nỗ lực quân sự cao nhất mà Mỹ cần phải chủ động vẫn là một loại "chiến tranh hạn chế" trong chiến lược toàn cầu ''"phản ứng linh hoạt"''. Quy mô của chiến tranh tuy lớn, nhưng vẫn mang tính chất "chống nổi dậy" (counter insurgency) nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Mỹ ở miền nam Việt Nam. Nội dung của cuộc chiến tranh bao gồm ba bộ phận: tiêu diệt bộ đội chủ lực [[giải phóng quân|quân Giải phóng]], "bình định nông thôn", nhằm phá hết cơ sở hạ tầng của cách mạng và phá hoại miền bắc chủ yếu bằng không quân nhằm đánh vào cái gọi là "nguồn gốc của sự nổi dậy". Đồng thời, tiến hành thương lượng hoà bình để buộc VNDCCHViệt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận những điều kiện mà Mỹ đưa ra.
 
Dựa vào ưu thế quân sự, với số quân đông, vũ khí hiện đại, hỏa lức mạnh, Mĩ vừa mới vào miền Nam đã cho quân mở ngay cuộc hành quân "tìm diệt" vào căn cứ quân giải phóng ở Vạn Tường ([[Quảng Ngãi]]). Tiếp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô<ref name="ReferenceA">Khí hậu miền Nam có hai mùa trong năm: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau (theo dương lịch)</ref>: đông - xuân 1965-1966 và 1966-1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định"
Dòng 97:
 
[[Tập tin:Napalm.jpg|nhỏ|trái|200px|[[Bom napalm]] được Mỹ ném xuống một ngôi làng]]
Quyết giành thắng lợi bằng quân sự, Mỹ đã đẩy nhanh việc đưa ồ ạt quân Mỹ, quân các nước phụđồng thuộcminh với Mỹ vào miền Nam. Từ tháng 7 đến cuối năm 1965, các Sư đoàn bộ binh 1 ([[Anh cả đỏ]]), Sư đoàn kỵ binh không vận 1, Lữ đoàn 1 thuộc [[Sư đoàn Kị binh không vận 101]] ([[Thiên thần mũi đỏ]]), Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh 25 ([[Tia chớp nhiệt đới]]), Trung đoàn kỵ binh thiết giáp 11, v.v…11… cùng hàng vạn tấn phương tiện chiến tranh hiện đại ùn ùn đổ vào miền Nam Việt Nam. [[Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ|Hạm đội 7]] - hạm đội hùng hậu nhất của Hải quân Mỹ được mệnh danh ''"chúa tể đại dương"'' trước kia hướng hoạt động ở Đông Bắc Á, nay tập trung hướng hoạt động vào vùng biển Đông Nam Á mà trọng điểm là Việt Nam, cùng hàng vạn lính Mỹ đóng ở Thái Lan, Philíppin, đảo [[Okinawa]], [[guam|đảo Guam]]... đều được sử dụng trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
 
Lực lượng đánh thuê có quân số 20.500 gồm [[Sư đoàn bộ binh Mãnh hổ]], [[Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ Rồng xanh]] [[Hàn Quốc]], Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Hoàng gia Australia, Trung đoàn Thái Lan, Đại đội pháo binh [[New Zealand]]. [[Tây Ban Nha]], [[Đài Loan]] cũng đưa sang Nam Việt Nam 43 cố vấn quân sự và chuyên gia giúp Mỹ. [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân đội Sài Gòn]] có 520.000 quân, biên chế thành 10 [[sư đoàn]] và 5 trung đoàn.
Dòng 104:
 
===Đối sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa===
[[Tập tin:Vinh Moc tunnels, family room.jpg|nhỏ|trái|220px|Một gia đình sống và chiến đấu trong [[Địa đạo Vịnh Mốc]]]]
 
[[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]] và Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]] chỉ ra rằng nước Mỹ giàu, quân Mỹ mạnh, trang bị hiện đại, nhưng Mỹ vào miền Nam ''"trong hoàn cảnh quân đội Sài Gòn đã thua trận, chính quyền tay sai rệu rã, chiến tranh đặc biệt đã thất bại, chúng mất thế chủ động chiến lược, trong khi đó lực lượng cách mạng đang nắm quyền chủ động chiến trường, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, liên hoàn ở cả ba vùng chiến lược."''<ref>Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tập 4. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. trang 32</ref>
 
VNDCCHViệt Nam Dân chủ Cộng hòa củng cố đường Trường Sơn và đã chuyển được một lượng khổng lồ khí tài chiến tranh, nhân lực vào chiến trường. Lực lượng vũ trang ba thứ quân cũng phát triển cân đối và lớn mạnh vượt bậc so với những năm đầu chiến tranh. Năm 1964, lực lượng vũ trang [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng miền Nam]] (chỉ tính riêng bộ đội chủ lực) có 11 trung đoàn và 15 tiểu đoàn; đến cuối năm 1965 đã phát triển lên 5 [[sư đoàn]] và 11 trung đoàn bộ binh, nhiều tiểu đoàn, trung đoàn binh chủng kỹ thuật. Lực lượng [[biệt kích|đặc công]], biệt động là binh chủng đặc biệt tinh nhuệ, từ những đội, những tổ hoạt động nhỏ lẻ trên các chiến trường, tiếp tục phát triển thành nhiều trung đoàn, tiểu đoàn, đội đặc công, trong đó có sư đoàn [[biệt kích|đặc công]] 100 gồm chín đội đặc công Nam Bộ hợp thành... Ở [[khu 5]], [[Tây Nguyên]], Trị - Thiên, các tiểu đoàn đặc công 406, 407, 408, 409, 487... là những đơn vị dạn dày kinh nghiệm đánh hậu cứ địch. Tất cả các lực lượng chính quy đều trang bị súng AK-47, loại súng trường cá nhân mang tính chiến lược.
 
Theo người cộng sản, chiến tranh càng mở rộng và kéo dài, thì mâu thuẫn càng bộc lộ và bị khoét sâu mà [[Nhà Trắng]], Lầu Năm góc Mỹ không thể nào khắc phục được. Đó là<ref name=lichsu>Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tập 4. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. trang 48</ref>:<blockquote>''- Mâu thuẫn giữa mục đích muốn giấu mặt trá hình để áp đặt [[chủ nghĩa thực dân kiểu mới]] nhưng buộc phải tiến hành chiến tranh bằng quân viễn chinh Mỹ, nên nhanh chóng bị lộ mặt.''</blockquote><blockquote>''- Mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh xâm lược nhưng phải xây dựng cho được chính quyền, quân đội tay sai bản xứ làm chỗ dựa và là công cụ của Mỹ nhằm áp đặt cho được chủ nghĩa thực dân kiểu mới.''</blockquote><blockquote>''- Mâu thuẫn khi buộc phải tiến hành chiến tranh để giữ vững và củng cố chính quyền, quân đội tay sai với thực tế càng tiến hành chiến tranh thì chính quyền, quân đội đó càng lục đục, suy yếu, lệ thuộc Mỹ, đồng thời kéo theo sự suy yếu của chính bản thân Mỹ.''</blockquote><blockquote>''- Mâu thuẫn giữa sức mạnh quân sự vốn có, nhưng do phi nghĩa và đặc điểm của thời đại chi phối, lại phải tiến hành chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nên Mỹ không thể sử dụng hết sức mạnh quân sự của bản thân trong cuộc chiến tranh cách xa nước Mỹ.''</blockquote><blockquote>vì vậy, phương châm đấu tranh được đề ra là: ''đẩy mạnh đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công Quân sự-Chính trị-Ngoại giao.''<ref name="lichsu" /></blockquote>
 
Chiến tranh càng mở rộng và kéo dài, thì mâu thuẫn càng bộc lộ và bị khoét sâu mà [[Nhà Trắng]], Lầu Năm góc Mỹ không thể nào khắc phục được. Đó là<ref name=lichsu>Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tập 4. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. trang 48</ref>:<blockquote>''- Mâu thuẫn giữa mục đích muốn giấu mặt trá hình để áp đặt [[chủ nghĩa thực dân kiểu mới]] nhưng buộc phải tiến hành chiến tranh bằng quân viễn chinh Mỹ, nên nhanh chóng bị lộ mặt.''</blockquote><blockquote>''- Mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh xâm lược nhưng phải xây dựng cho được chính quyền, quân đội tay sai bản xứ làm chỗ dựa và là công cụ của Mỹ nhằm áp đặt cho được chủ nghĩa thực dân kiểu mới.''</blockquote><blockquote>''- Mâu thuẫn khi buộc phải tiến hành chiến tranh để giữ vững và củng cố chính quyền, quân đội tay sai với thực tế càng tiến hành chiến tranh thì chính quyền, quân đội đó càng lục đục, suy yếu, lệ thuộc Mỹ, đồng thời kéo theo sự suy yếu của chính bản thân Mỹ.''</blockquote><blockquote>''- Mâu thuẫn giữa sức mạnh quân sự vốn có, nhưng do phi nghĩa và đặc điểm của thời đại chi phối, lại phải tiến hành chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nên Mỹ không thể sử dụng hết sức mạnh quân sự của bản thân trong cuộc chiến tranh cách xa nước Mỹ.''</blockquote><blockquote>vì vậy, phương châm đấu tranh được đề ra là: ''đẩy mạnh đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công Quân sự-Chính trị-Ngoại giao.''<ref name="lichsu" /></blockquote>[[Tập tin:Vinh Moc tunnels, family room.jpg|nhỏ|trái|220px|Một gia đình sống và chiến đấu trong [[Địa đạo Vịnh Mốc]]]]Và ngàyNgày 20-7-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi: ''"Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn".''<ref>Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nhà xuất bản. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.11, tr. 470.</ref> Nói chuyện với cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: ''"Bây giờ Mỹ có 20 vạn quân ở miền Nam, nó có thể đưa thêm vào hơn nữa đến 30, 40, 50 vạn quân. Ta vẫn thắng, nhất định ta thắng. Ta nói như thế không phải để tuyên truyền, mà căn bản là như thế..."''<ref>Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nhà xuất bản. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996, t.12, tr.15, tr.15-16, tr.16.</ref>
 
Trong Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất họp tài Lò Gò, phía tây bắc tỉnh [[Tây Ninh]] từ ngày 2 đến ngày 6-5-1965, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phát động phong trào thi đua ''Quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ'' và Đại tướng [[Nguyễn Chí Thanh]], Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư [[Quân ủy Trung ương|Quân uỷ Trung ương]] nêu quyết tâm ''Cứ đánh Mỹ sẽ tìm ra cách đánh thắng Mỹ.''
Hàng 118 ⟶ 120:
 
[[Tập tin:UC-123B during Operation Pink Rose 1967.jpg|nhỏ|220px|trái|Máy bay Mỹ rải [[chất độc da cam|chất hóa học]] xuống miền Nam]]
Mặc dù chịu đựng nhiều tổn thất về sinh mạng, song Chiến thắng Vạn Tường chứng minh rằng quân Giải phóng hoàn toàn có khả năng đánh bại quân đội Mỹ trong điều kiện địch có ưu thế về binh, hoả lực và sức cơ động. Thông tin trực tiếp về thực lực của quân đội Mỹ được phổ biến rộng cho MTDTGPMặt trận Dân tộc Giải phóng. Trận Vạn Tường đã mở đầu cao trào "Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt" trên khắp miền Nam.
 
Sau trận thắng ở Vạn Tường, quân Giải phóng rút kinh nghiệm từ bỏ tham vọng tiêu diệt sinh lực đối phương ở cấp trung đoàn, mà từ quy mô tiểu đoàn trở xuống, chỉ mở chiến dịch cấp trung đoàn trở lên khi cần thiết để đảm bảo hiệu suất. Họ tăng cường tiến công quân Mỹ ở Thuận Ninh (18-9), Cát Sơn, Cát Hiệp (10 và 14- 10) thuộc tỉnh Bình Định; bắn pháo vào [[sân bay quốc tế Đà Nẵng|sân bay Đà Nẵng]], Chu Lai (24-10) phá huỷ, phá hỏng 163 máy bay các loại, diệt nhiều lính Mỹ.
 
Ngày 19-10-1965, Quân giải phóng Tây Nguyên mở [[chiến dịch Plâyme]], cách thị xã Plâycu khoảng 30&nbsp;km về phía tây nam. Không gian chiến dịch diễn ra trong tứ giác PlâymePleime - Bầu Cạn - Đức Cơ - Plây Thê thuộc huyện 5, nay là huyện Chư Prông với diện tích 1.200&nbsp;km².
 
Kết thúc chiến dịch Plâyme, quân Giải phóng tiêu diệt một chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp [[quân lực Việt Nam Cộng hòa]], phá huỷ 89 xe quân sự, tiêu diệt Tiểu đoàn 2/7, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 1/7 kỵ binh bay Mỹ; bắn rơi, phá hỏng 59 máy bay lên thẳng. Phía Mỹ xác nhận trong [[trận Ia Đrăng]] có 824 lính Mỹ bị thương, trong đó có 304 chết. Tướng Mỹ G. Moore và L. Galoway phóng viên chiến tranh, đã chiến đấu trong trận Ia Đrăng sau này nhận định rằng: ''"Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam".''<ref>Dẫn theo cuốn Đã một thời chúng tôi là những người lính... và trẻ trung của Trung tướng G. Morơ và L. Galoguây do Vương Minh Quang dịch, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1993.</ref>
Hàng 134 ⟶ 136:
- Tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân Giải phóng giành lại chủ động trên chiến trường, buộc đối phương phải phân tán, do đó không đủ khả năng đánh lớn.<br>
- Bình định có trọng điểm, giành dân, đánh phá hậu cần dự trữ.<br>
- Ổn định tình hình chính trị, củng cố quân đội và chính quyền VNCHViệt Nam Cộng hòa.<br>
- Khai thông các hệ thống giao thông giữa các vùng chúng kiểm soát với nhau.<br>
- Đánh phá miền Bắc, cô lập miền Nam.
 
Đông - xuân 1965-1966, với 72 vạn quân (trong đó có 22 vạn quân Mĩ, còn lại là quân đồng minh và [[quân lực Việt Nam Cộng hòa]]), gồm 14 [[sư đoàn]], 9 lữ đoàn và trung đoàn bộ binh Mỹ, VNCHViệt Nam Cộng hòa và các nước phụ thuộc Mỹ, hơn 1.000 khẩu đại bác, 1.342 [[xe tăng]], [[phương tiện chiến đấu bọc thép|xe bọc thép]], 2.288 máy bay các loại, 541 tàu, xuồng chiến đấu. Mỹ mở đợt phản công với 5 cuộc hành quân "tìm diệt" lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở [[Đông Nam Bộ (Việt Nam)|Đông Nam Bộ]] và khu V<ref>Quân khu V (khu vực Duyên hải nam trung bộ và Tây Nguyên)</ref>, gọi là '''"chiến dịch Năm mũi tên"'''. Mục tiêu đánh bại quân chủ lực [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]]
 
Trên hướng thứ nhất, [[Củ Chi]] là trọng điểm, địch mở cuộc hành quân "Cái bẫy" nhằm diệt cơ quan đầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định và triệt hạ vùng giải phóng Củ Chi. Trong cuộc hành quân "Cái bẫy", Mỹ tập trung 12.000 quân (có 8.000 lính Mỹ), 200 máy bay, 600 xe quân sự, 100 đại bác đánh vào [[Củ Chi]], hòng dồn lực lượng quân Giải phóng vào vùng Hố Bò để tiêu diệt. Với lực lượng lớn, ưu thế binh lực, hoả lực, lính Mỹ tin chắc sẽ đánh bại quân Giải phóng.
 
[[Tập tin:White phosporus booby trap casualty treated by medic in Vietnam 1966.JPEG|nhỏ|trái|210px|Một lính Mỹ bị sập bẫy chông của quân Giải phóng]]
Tuy nhiên, sau 12 ngày đêm liên tục chiến đấu (từ 8 đến 19-1), quân Mỹ không đạt được mục tiêu nào. Quân và dân Củ Chi đã đánh 200 trận lớn, nhỏ, diệt và làm bị thương gần một ngàn quân Mỹ, VNCHvà Việt Nam Cộng hòa, bắn rơi 84 máy bay (phần lớn là HU-1A), phá huỷ và phá hỏng 77 xe quân sự (có 56 xe bọc thép [[M-113]]), hai pháo 105mm. Trong cuộc hành quân tìm diệt này, quân Mỹ đã san bằng gần 3.000 ngôi nhà, triệt hạ hàng ngàn hécta vườn cây, ruộng lúa, càn nát nhiều giao thông hào, đánh sập một số cửa địa đạo. Mặc dù vậy, cuộc hành quân "Cái bẫy" của Mỹ không đạt được mục tiêu đề ra là tiêu diệt cơ quan đầu não và đơn vị chủ lực Quân giải phóng. Ngày 19- 1, Mỹ buộc phải kết thúc và rút các lữ đoàn bộ binh thuộc [[Sư đoàn Anh cả đỏ]] xuống nam Củ Chi để lập căn cứ tại Đồng Dù. Tại đây, quân Mỹ đã sangiải bằngtỏa 2.000 ngôi nhà, nhiều vườn cây, trong đó có 350 hecta cây cao su của xã Phước Vĩnh An để làm căn cứ đóng quân cho 4.500 lính Mỹ (gồm Sư đoàn bộ và Lữ đoàn 2, Sư đoàn 25).
Tiếp đến, trong tháng 4 và 5-1966, Lữ đoàn 1, Lữ đoàn 3, Tiểu đoàn cơ giới của [[Sư đoàn 25 Tia chớp nhiệt đới]] Mỹ, lần lượt được điều đến chiến trường bắc [[Long An]], cùng Lữ đoàn dù 173 càn quét chà xát từ Bàu Trai - Đức Lập (Hậu Nghĩa) sang Bến Lức, Vườn Thơm - Bà Vụ, tiến đánh Đức Hoà, Đức Huệ từng đợt năm, sáu ngày cho đến lúc kết thúc cuộc phản công mùa khô thứ nhất (30-5-1966). Ở đây, hàng ngàn lính Mỹ đã bị thương vong. Đặc biệt, lần đầu tiên trên chiến trường khu VIII, tại Bàu Sen, một đại đội Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 đã bị diệt hoàn toàn. Ý đồ của Mỹ chặt đứt hành lang kháng chiến từ miền Đông xuống Đồng Tháp Mười không thực hiện được.
Hàng 155 ⟶ 157:
Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô 1966-1967, dự tính từ tháng 10-1966 đến tháng 6-1967. Ý đồ của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần này là cố giành một thắng lợi quân sự lớn trên chiến trường, tạo một bước ngoặt, tiến tới giành những thắng lợi quyết định. Về chiến lược, lần này địch không phân tán lực lượng đánh trên nhiều hướng mà tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ, đồng thời chú trọng đẩy mạnh kế hoạch bình định, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn - Gia Định, kiềm chế các hướng Tây Nguyên, Trị - Thiên.
 
Cụ thể là: ưu tiên tập trung lực lượng tiến công vào hệ thống căn cứ quân Giải phóng ở [[Tây Ninh]], [[Bình Dương]], [[Long An]], [[Hậu Nghĩa]], [[Phước Tuy (tỉnh)|Phước Tuy]], trọng điểm là [[Dương Minh Châu (chiến khu)|Chiến khu Dương Minh Châu]], diệt cơ quan đầu não và một bộ phận chủ lực, kết hợp với việc mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Trong phản công chiến lược lần thứ hai này, cùng một lúc Mỹ thực hiện cả hai nhiệm vụ "tìm diệt" và "bình định", gọi là "chiến lược hai gọng kìm". Trong đó lớn nhất là [[chiến dịch Junction City]] (Gian-xơn Xi-ti) đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc [[Tây Ninh]]), nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]]<blockquote>Để thực hiện kế hoạch chiến lược trên đây, những tháng cuối năm 1966 và đầu năm 1967, Mỹ đưa thêm vào miền Nam hai Sư đoàn bộ binh số 4 và số 9, nâng tổng số quân Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam lên 389.000 vào cuối tháng 12-1966. Mỹ còn dự kiến sẽ tăng quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên 459.000 cho năm 1967. Nhưng mới đến tháng 8-1967, tình hình quân sự, chính trị của Mỹ và Sài Gòn ở Việt Nam biến chuyển theo chiều hướng đi xuống không có lợi cho Mỹ, nên phải trù tính tăng quân Mỹ lên 542.588 vào cuối năm 1967. Phương tiện chiến tranh cũng được bổ sung nhiều gần gấp 1,5 lần so với mùa khô lần thứ nhất. Tính đến tháng 12-1966, số máy bay đưa vào Việt Nam lên tới 3.500 chiếc và đến tháng 5-1967 tăng lên 4.300 chiếc; [[xe tăng]], thiết giáp 2.500 chiếc, pháo 2.540 khẩu, v.v... Nếu tính cả lực lượng Mỹ ở Hạm đội 7, Thái Lan, PhilippinPhilippines, Guam, tham gia chiến tranh Việt Nam thì tổng số quân tham chiến lên tới 1.200.000, riêng quân Mỹ 60 vạn.
 
Những thắng lợi cơ bản về chiến thuật của QGPMNQuân Giải phóng miền Nam, cùng tình hình chiến sự - chính trị bắt đầu có lợi cho họ, các lực lượng vũ trang và cơ sở chính trị đã khôi phục. Miền Bắc tiến hành gửi quân tiếp viện bằng những đơn vị chính quy hoàn thiện vào khắp các chiến khu của QGPQuân Giải phóng, đồng thời gửi thêm nhân lực bổ sung bù đắp thiệt hại. Gần 10 vạn người có vũ trang đã đi qua Trường Sơn, 3/4 trong số đó tiếp cận chiến trường.</blockquote>Cuộc phản công bắt đầu vào ngày 14-9-1966 bằng cuộc hành quân cấp quân đoàn đầu tiên: [[chiến dịch Attleboro]] (Át-tơn -bo-rơ). Không gian của cuộc hành quân từ [[Trảng Bàng]] đến Gò Dầu Hạ nằm trên đường số 1 và Trại Đèn trên đường 13 ([[Tây Ninh]]), nhằm tìm diệt một bộ phận chủ lực Giải phóng (Sư đoàn 9 và Trung đoàn 16), hỗ trợ cho việc bình định quanh Sài Gòn. Tham gia cuộc hành quân này có lực lượng của Sư đoàn 1 Sư đoàn 25 (thiếu), Lữ đoàn 196, một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ cùng chín tiểu đoàn quân Sài Gòn, chưa kể lực lượng pháo binh, thiết giáp và không quân (có cả [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52]]) chi viện. Tất cả khoảng 30.000 quân.
 
[[Tập tin:ACAVs Herringbone Formation Vietnam.jpg|nhỏ|trái|180px|Xe thiết giáp Mỹ trong chiến dịch Cedar Falls]]
Hàng 164 ⟶ 166:
Diễn biến của cuộc hành quân hoàn toàn không như quân Mỹ dự tính. Rất ít quân du kích thiệt mạng, về cơ bản các đơn vị của họ không bị đánh bật ra ngoài. Hệ thống hầm ngầm không bị triệt phá mà chỉ bị hư hại một phần. Hố bom loang lổ, hàng mảng đất bị cày xới lên bằng máy xúc. Song không có quả bom nào, không có máy xúc nào khoét đủ sâu để phá hoại hầm ngầm. Cái khó không phải hệ thống hầm ngầm đào quá sâu mà chính vì nó chạy ngoắt ngoéo không một chỗ nào là thẳng. Những cửa ngách và lỗ thông hơi thì nhiều vô kể, điều đó hạn chế khả năng bị phá huỷ. Các sĩ quan Mỹ trong cuộc càn Cedar Falls đều có chung nhận xét như vậy.
 
'''[[Chiến dịch Junction City]] - ĐỈNH CAO CỦA CHIẾN LƯỢC TÌM DIỆT'''
 
Theo tính toán của Westmoreland, Tây Ninh không chỉ là căn cứ của [[Trung ương Cục miền Nam]], Bộ chỉ huy Miền, Mặt trận Dân tộc giải phóng, mà còn là nơi tích trữ vật chất, có nhiều kho dự trữ chiến lược; là địa bàn đóng quân của lực lượng chủ lực (tức Sư đoàn 9). Vì vậy tuy đã thất bại trong cuộc hành quân lớn trước đó Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn vẫn quyết định mở cuộc hành quân quy mô lớn mang tên Junction City, tập trung lực lượng đông đảo đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh).
 
Để thực hiện những mục tiêu trên, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa huy động đại bộ phận quân Mỹ triển khai ở miền Đông Nam Bộ và một phần quân Sài Gòn. Lực lượng này bao gồm chín lữ đoàn bộ binh Mỹ (ba lữ của Sư đoàn bộ binh 1; hai lữ của Sư đoàn bộ binh 25; một lữ của Sư đoàn bộ binh số 4; một lữ của Sư đoàn bộ binh 9, Lữ đoàn 196 và Lữ đoàn dù 173), một lữ đoàn thuỷ quân lục chiến Sài Gòn. Ước tính quân số khoảng 45.000 và trên 1.000 xe tăng, xe bọc thép, hàng trăm khẩu pháo các loại, cùng nhiều máy bay.<blockquote>Phương án tác chiến được Bộ chỉ huy Miền xác định: ''"Bộ đội chủ lực khi tập trung, lúc phân tán linh hoạt, sẵn sàng cơ động, phối hợp và hỗ trợ cho du kích cơ quan thực hiện đánh nhỏ, đánh vừa, tạo điều kiện đánh những trận lớn, tiêu diệt được tiểu đoàn, chiến đoàn địch, bẻ gãy các mũi hành quân của chúng vào vùng căn cứ cách mạng."''</blockquote>[[Tập tin:Wounded American soldiers being moved to aid station (Battle of Dak To, 1967).jpg|nhỏ|trái|220px|Lính Mỹ thương vong trong trận đánh]]
Sau mấy ngày đầu của cuộc hành quân, các mũi tiến công của Mỹ đều không phát triển được, đi đến đâu cũng bị du kích, bộ đội địa phương đánh lẻ tẻ gây thương vong. Tinh thần sĩ quan, binh lính Mỹ rã rời. Hãng tin Pháp [[AFP]] ngày 22-2 đưa tin và bình luận: ''"Cuộc hành quân Junction City được coi là một trong những hy vọng lớn của Mỹ trong giai đoạn trước mắt, cuộc hành quân có nhiều tham vọng nhất trong cuộc chiến tranh, nhưng kết quả thật đáng buồn, trong bốn ngày qua không thấy dấu vết lãnh đạo Mặt trận Dân tộc giải phóng đâu cả. Đài phát thanh Mặt trận Dân tộc giải phóng vẫn tiếp tục hoạt động mặc dù một trong những mục tiêu của cuộc hành quân là làm cho nó câm đi...".''<ref>Chiến dịch phản công đánh bại cuộc càn Gianxơn Xity, Nhà xuất bản. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr.5</ref>
 
Ngày 13-3-1967, các cánh quân Mỹ bắt đầu rút khỏi căn cứ Dương Minh Châu. Đợt một của cuộc hành quân Junction City đã bị thất bại
 
Từ ngày 15-3, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn triển khai giai đoạn hai cuộc hành quân Junction City, lật cánh chuyển hướng tiến công chủ yếu sang phía đông căn cứ của ta. Thủ đoạn của địch lần này là bao vây rộng, thọc sâu, tiến chắc, dùng không quân oanh tạc dữ dội, dọn sạch những chướng ngại phía đông căn cứ. Tuy nhiên kết quả vẫn không khá hơn.<blockquote>Ngày 15-5-1967, Westmoreland tuyên bố cuộc hành quân Junction City chấm dứt. Đại tướng [[Nguyễn Chí Thanh]] nhận xét: ''"Cuộc hành quân Junction City là một cuộc hành quân lớn nhất của quân Mỹ vào vùng căn cứ bắc Tây Ninh lại là cuộc hành quân thua đau nhất, là cái mốc đánh dấu đỉnh cao sự thất bại của chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong âm mưu tìm diệt của chúng"''<ref>Chiến dịch phản công đánh bại cuộc càn Gianxơn Xity, Nhà xuất bản. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 7 - 8</ref></blockquote>Với thất bại này, về cơ bản, gọng kìm "[[chiến lược Tìm và diệt|tìm và diệt]]" của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai đã bị bẻ gãy. Như vậy, trong mùa khô 1966-1967, thực hiện gọng kìm tìm diệt chủ lực quân giải phóng, Mỹ chẳng những không thực hiện được ý đồ tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng lực lượng Giải phóng, mà còn bị đánh tiêu hao một phần lớn lực lượng. Tính chung trong sáu tháng mùa khô, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 175.000 lính (có 76.000 lính Mỹ, lính Nam Triều Tiên, ÔxtrâyliaAustralia, NiuNew DilânZealand, PhilíppinPhilippines), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 49 tiểu đoàn và đơn vị tương đương, bắn rơi và phá huỷ 1.800 máy bay các loại, phá hỏng 1.783 xe quân sự, 340 khẩu đại bác, bắn chìm và bắn cháy 100 tàu xuồng, đánh sập và hỏng 270 cầu lớn nhỏ.
 
===Làm thất bại gọng kìm "Bình định"===
 
Ngay từ cuối 1966, Mỹ đã tập trung một số lớn nhân tài, vật lực cho công cuộc bình định miền Nam. Về phía chính quyền Sài Gòn, lực lượng tham gia chương trình bình định gồm: 53 tiểu đoàn chủ lực, 177 đại đội địa phương, 5 đại đội cảnh sát dã chiến, 559 trung đội nghĩa quân, 552 đoàn cán bộ bình định. Riêng tại các địa bàn trọng điểm bình định ven đô [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]], [[Long Khánh]], [[Phước Tuy (tỉnh)|Phước Tuy]], [[Bình Dương]], [[Long An]], [[Tây Ninh]], [[Bình Long]] (thuộc Vùng chiến thuật III), Trị - Thiên, Bình Định, Tuy Hoà, Quảng Ngãi, Plâyku, Kon Tum (thuộc Vùng chiến thuật I và II), Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Kiến Phong (thuộc Vùng chiến thuật IV), ngoài lực lượng quân Sài Gòn, Mỹ huy động thêm 40 tiểu đoàn Mỹ, 1.500 chuyên gia bình định, một số đơn vị quân Nam Triều Tiên, ÔxtrâyliaAustralia.
 
[[Tập tin:Fast Patrol Craft Crew engaging.jpg|nhỏ|phải|220px|Tàu tuần tra Mỹ cànkiểm quétsoát vùng sông ngòi nông thôn]]
Song song với việc tăng cường lực lượng, Mỹ đã nâng tổng ngân sách đầu tư cho công tác bình định từ 8 tỷ (tiền Sài Gòn) năm 1966, lên 14 tỷ năm 1967. Với sức mạnh được tập trung như vậy, Mỹ và chế độ Sài Gòn dự kiến đến hết năm 1967 sẽ củng cố và xây dựng được 3.500 ấp và trại tập trung, trong đó, xây dựng mới hoàn toàn là 1075 ấp, dồn được 1.315.000 dân. Đặc biệt, để phục vụ trực tiếp cho chương trình, Mỹ đã khẩn trương lựa chọn và đưa đi đào tạo đội ngũ cán bộ bình định của chính quyền Sài Gòn ở các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước.
 
Hàng 186 ⟶ 188:
Kể từ lúc khởi đầu cuộc chiến tranh đến khi Mỹ mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, Khu V luôn là địa bàn "ưu tiên bình định", nên nơi đây đã trở thành một trong những điển hình của phong trào chống bình định, phá ấp chiến lược ở miền Nam. Bước vào mùa khô năm 1966 - 1967, rút kinh nghiệm trong mùa khô lần thứ nhất, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu V xác định: tiếp tục đẩy mạnh phương châm "ba bám" như đã thực hiện có hiệu quả trước đây, nay bổ sung thêm phương châm "cấp trên bám cấp dưới" đã kịp thời phát hiện, nghiên cứu các thủ đoạn đánh phá của địch, tìm ra cách đối phó kịp thời cho ta theo từng địa bàn. Từ đây "bốn bám" trở thành những phương châm hành động của các cấp, các ngành, của lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương.
 
Song song với thành công trong chống phá bình định, nhân dân hầu khắp các địa phương miền Nam đã xây dựng được hệ thống ấp, xã chiến đấu liên hoàn, vững chắc, mà điển hình là: [[Trà Vinh]] có xã An Trường; [[Bà Rịa]] có xã Long Tân, Long Điền, Đất Đỏ; [[Củ Chi]] có xã An Phú, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây...; An Khê có xã Bắc, xã A1; [[Đắk Lắk|Đắc Lắc]] có Khuê Ngọc Điền; [[Kon Tum]] có Đắc Uy; [[Quảng Ngãi]] có Hoà Bình; [[Quảng Nam]] - [[Đà Nẵng]] có Hoà Hải, Anh Dũng, v.v... Đây thực sự là những pháo đài vững chắc chống phá có hiệu quả các cuộc hành quân càn quét và bình định của Mỹ.
 
Cùng với thắng lợi trên mặt trận quân sự, công tác chống phá bình định cũng thu được kết quả bước đầu rất quan trọng. Kế hoạch bình định năm 1966 của Mỹ là bình định 900 ấp, củng cố 1.900 ấp. Nhưng đến tháng 6, quân dân Nam Bộ đã phá sạch 2.668 ấp. Khu VI phá 238 ấp trong tổng số 360 ấp, giải phóng 203.345 dân trong tổng số 744.400 dân; Khu V, Tây Nguyên và Trị - Thiên vùng giải phóng các tỉnh được mở rộng, liên hoàn với 2.125.000 dân đã giành được quyền làm chủ 233.000 dân còn trong vùng tranh chấp. Ngay những vùng Mỹ tập trung lực lượng để bình định như Long An, Củ Chi, Quảng Nam, Quảng Ngãi những làng xã chiến đấu cũng mọc lên liên hoàn. Tháng 10-1966, sau khi nghiên cứu các báo cáo về tình hình miền Nam kết hợp với chuyến đi miền Nam trước đó, McNamara báo cáo với Johnson: "Công tác bình định chỉ có đi thụt lùi"<ref>Tài liệu mật của Bộ quốc phòng Mỹ, tlđd, t.2, tr.199.</ref>
 
Trong mùa khô 1966-1967, riêng trên mặt trận chống phá bình định, quân Giải phóng đã giành thêm được 390 ấp, xã; nâng số xã trong vùng giải phóng lên tới 700 xã, 6.750 ấp và dinh điền. Mỹ - VNCHViệt Nam Cộng hòa chỉ thực sự kiểm soát được 5.400 ấp trên tổng số 16.293 ấp toàn miền Nam (số còn lại là ấp xã đang tranh chấp). Theo kế hoạch đặt ra năm 1967, Mỹ và Sài Gòn phải hoàn toàn kiểm soát được 3.500 ấp (có 1.076 ấp mới), nhưng thực tế chỉ lập được 291 ấp mới (mà số ấp bị phá là hơn 300), đạt khoảng 13% kế hoạch. Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận rằng: ''"Những cố gắng ban đầu của Chính phủ Việt Nam cộng hoà nhằm định ra các chương trình bình định và phát triển nông thôn đã thất bại, vì đó là những chương trình đầu đuôi lẫn lộn được vạch ra một cách vụng về". "Sau đó, những cố gắng của Mỹ nhằm giúp đỡ các chương trình bình định của Chính phủ Việt Nam cộng hoà lại phạm những sai lầm..."'' nên không tránh khỏi thất bại.<ref>Tóm tắt tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, 12 – 13, bản đánh máy lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số VL. 1266/83.</ref>
 
=== Miền Bắc chống [[Chiến dịch Sấm Rền|chiến tranh phá hoại]] bằng Không quân của Mỹ===
Hàng 200 ⟶ 202:
Lực lượng vũ trang gấp rút chấn chỉnh biên chế, tổ chức và tăng cường về quân số. Các đơn vị được lệnh tổ chức báo động, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu. [[Quân chủng Phòng không - Không quân]] hoàn chỉnh phương án chiến đấu, triển khai lực lượng theo hướng tập trung hoả lực bảo vệ các mục tiêu chủ yếu, đồng thời hình thành lực lượng chiến đấu tại chỗ, rộng khắp. [[Hải quân|Quân chủng Hải quân]] từ tháng 7-1964 chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tăng cường tuần tiễu vùng biển ven bờ, tổ chức Bộ Tư lệnh tiền phương ở vùng biển Quân khu IV. Các quân chủng, binh chủng khác cũng gấp rút hình thành phương án chiến đấu, bảo đảm giao thông trong điều kiện chiến tranh lan rộng ra cả nước. Các địa phương tập dượt huấn luyện chiến đấu, phục vụ chiến đấu sơ tán, phân tán tài sản và nhân dân...
 
[[Tập tin:North Vietnamese SA-2.jpg|nhỏ|240px|phải|Một đơn vị tên lửa [[S-75 Dvina|SA-2]] của QĐNDVNQuân đội Nhân dân Việt Nam trước giờ chiến đấu]]
Bên cạnh bộ đội phòng không chủ lực, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ phát triển nhanh chóng. Năm 1964, dân quân, tự vệ chiếm 8% so với dân số miền Bắc. Tỷ lệ đó đến cuối năm 1965 tăng lên 10%. Những năm 1966, 1967, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, đại đội [[pháo phòng không]], được trang bị từ súng máy cao xạ 12,7mm, 14,5mm đến cao xạ 37mm, 100mm. Riêng dân quân, tự vệ có 2.000 đơn vị trực chiến trên toàn miền Bắc, sẵn sàng phối hợp chiến đấu cùng bộ đội. Dân quân, tự vệ là lực lượng nòng cốt để xây dựng, phát triển phong trào toàn dân bắn máy bay, tàu chiến Mỹ, làm công tác phòng không nhân dân và bảo đảm giao thông vận tải, bảo vệ trị an. Ở nông thôn, dân quân, tự vệ còn là lực lượng xung kích trong sản xuất, xây dựng, đặc biệt là ở những địa bàn thường xuyên bị đánh phá ác liệt.