Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Cao Kỳ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Bàng Bá Lân (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của InternetArchiveBot Thẻ: Lùi tất cả |
|||
Dòng 189:
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
Ông sinh ngày 8 tháng 9 năm 1930 tại [[Sơn Tây (thị xã)|thị xã Sơn Tây]], quê làng Mai Trai<ref name=vnn1/>, thuộc phường [[Quang Trung, thị xã Sơn Tây|Quang Trung]] thị xã [[Sơn Tây (thị xã)|Sơn Tây]], [[thế kỷ 19]] là xã Mai Trai, tổng Thanh Vị, huyện Minh Nghĩa, phủ Quảng Oai, tỉnh [[Sơn Tây (tỉnh Việt Nam)|Sơn Tây]]<ref>Cuốn ''Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, trang 42.</ref>). Ông là con thứ ba và là con trai độc nhất của ông giáo Nguyễn Cao Hiếu. Thiếu thời, ông là một học sinh giỏi, nhưng rất ngỗ nghịch. Ông học Tiểu học ở Sơn Tây hết lớp Nhì ''(lớp 4 bây giờ)'' thì được cho về Hà Nội vào học ở [[trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội|trường Bưởi]] (hay trường trung học Bảo hộ – ''Lycée du protectorat'' – nay là trường Trung học phổ thông Chu Văn An). Năm 1950 ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài bán phần Pháp (Part I).
[[Tập tin: SonTay1883.gif|nhỏ|phải|<center>Làng Mai Trai, tổng Thanh Vị, huyện Minh Nghĩa (Tùng Thiện), phủ Quảng Oai. Quê Nguyễn Cao Kỳ nằm phía đông nam thành cổ Sơn Tây]]
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia Việt Nam, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 50/600.094. Được theo học khóa 1 Lê Lợi tại trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]]. Ra trường, ông được phân bổ về một đơn vị Bộ binh làm Trung đội trưởng, đồn trú tại châu thổ sông Hồng. Tháng 12 cùng năm, ông trúng tuyển vào Quân chủng Không quân tại Hà Nội và được đi du học lớp Huấn luyện Phi hành Vận tải cơ DC.3 ''(C.47)''. Tiếp đến, ông được huấn luyện trên loại phi cơ T.6 tại trường Phi hành ''(École Pilot–age)'' Marrakeck ở Vương quốc [[Pháp bảo hộ Maroc|Maroc]], Bắc Phi ''(thuộc địa của Pháp)'' trong thời gian 9 tháng. Năm 1953, chuyển đến căn cứ Không quân Vord, miền nam Thủ đô Paris, Pháp, ông được huấn luyện tiếp trên một loại máy bay 2 động cơ M.A.315 ''(Marcel Dassaut)'' để học bay trời mù sương. Sau đó qua Algérie thụ huấn về phi cơ oanh tạc. Sau [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]], ông ở lại tham gia [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], trở thành một trong những phi công và sĩ quan chỉ huy đầu tiên của [[Không lực Việt Nam Cộng hòa]].
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Dòng 243:
==Những năm cuối đời==
Từ năm 2004–2008, sau khi sống tại [[Hoa Kỳ]], ông đã bốn lần về [[Việt Nam]]
Những ngày ở Việt Nam, ông là người đóng vai trò trung gian cho [[Đào Hồng Tuyển]],<ref name=vnn2/> một trong những người giàu nhất Việt Nam, thành công trong một thương vụ xây dựng resort và sân [[golf]], được báo chí tường thuật là tới 1,5 tỉ USD với một doanh nhân Mỹ<ref name=vnn3/>.
Dòng 252:
==Gia tộc và gia đình==
Ông có ba người vợ với 6 người con:
|