Khác biệt giữa bản sửa đổi của “KGB”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Thêm một hay nhiều mục vào danh sách
Dòng 183:
Đến cuối năm 1991, Ủy ban An ninh Quốc gia Liên Xô không còn tồn tại. Ngày 3 tháng 12 năm 1991, là ngày chính thức KGB bị giải tán, do ngày này thông qua Luật số 124-N "Về việc tổ chức lại các cơ quan an ninh quốc gia" của [[Hội đồng Xô viết Tối cao các nước Cộng hòa Liên Xô]], đã hợp pháp hóa việc giải thể KGB như một cơ quan chính phủ, không được quy định theo [[Hiến pháp Liên Xô]]. Theo Điểm 2 Điều 113 của Hiến pháp Liên Xô, quyết định về việc giải thể KGB là thẩm quyền của toàn thể Xô Viết Tối cao Liên Xô, không chỉ một trong các viện của nó (hơn nữa, không được quy định bởi Luật Cơ bản Liên Xô). Trước khi thông qua tuyên bố về việc giải thể Liên Xô vào ngày 26 tháng 12 năm 1991, Xô viết Tối cao Liên Xô đã không loại bỏ tham chiếu đến KGB khỏi Luật số 2159-I "về các cơ quan an ninh quốc gia Liên Xô" ngày 16 tháng 5 năm 1991.
==Cơ sở hoạt động và phụ thuộc==
Không giống như các cơ quan quản lý nhà nước khác của Liên Xô, Ủy ban An ninh Nhà nước là một tổ chức đảng-nhà nước. Với tư cách pháp nhân, KGB là cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời, trực thuộc cơ quan cao nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô - Ban Chấp hành Trung ương Đảng và [[Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô|Bộ Chính trị]]. Sau này được ghi trong Quy chế làm việc của KGB, theo quan điểm pháp luật, quy định "sự thống nhất Đảng Cộng sản Liên Xô và các cơ quan an ninh nhà nước" và biến KGB "trở thành lực lượng vũ trang của đảng, bảo vệ về mặt thể chế và chính trị quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô, cho phép đảng thực hiện quyền kiểm soát hiệu quả và chặt chẽ đối với xã hội".
 
Trước khi Luật các Cơ quan An ninh Nhà nước của Liên Xô được thông qua vào năm 1991, các hoạt động KGB được điều chỉnh bởi Quy chế của KGB và các nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và [[Chính phủ Liên Xô]]. Ngoài các văn bản này, các cơ quan an ninh còn tự mình ban hành hơn ba nghìn văn bản luật trong suốt thời gian tồn tại. Đến đầu năm 1991, tổng số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của KGB là hơn 5.000 văn bản ở nhiều cấp khác nhau. Tuy nhiên, loạt tài liệu này, theo lãnh đạo KGB, không có liên kết hữu cơ với luật Liên Xô; không có sự tuân thủ đầy đủ và tuân thủ nghiêm ngặt các luật Liên Xô của các quy phạm pháp luật, hướng dẫn Ủy ban An ninh Nhà nước và các cơ quan địa phương của nó.
{{Quote|"Trung với Đảng - Trung với nước", "Tổ quốc có chung một Đảng", "Bảo vệ Đảng Lenin"
::::::-Phương châm, câu nói thông dụng}}
==Quy định về KGB==
"Quy chế về Ủy ban An ninh Nhà nước thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và các cơ quan địa phương của nó", được giao ở mức độ bí mật cao nhất, là văn bản chính quy định các hoạt động của KGB. Dự thảo quy chế, được xây dựng với sự tham gia của của bản thân lãnh đạo cao nhất của KGB, đã được Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô phê chuẩn vào ngày 9 tháng 1 năm 1959. Sau khi được Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ban hành, Quy chế về KGB vẫn có hiệu lực hơn 30 năm, hầu như không thay đổi, cho đến khi Luật Liên Xô "Về các cơ quan an ninh quốc gia tại Liên Xô" được thông qua vào tháng 5 năm 1991. Theo quy định này, Ủy ban An ninh quốc gia được coi là "cơ quan chính trị" thực hiện các hoạt động của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính phủ Liên Xô "để bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa khỏi sự xâm phạm của kẻ thù bên ngoài và bên trong, cũng như bảo vệ biên giới quốc gia của Liên Xô". Đồng thời, việc quản lý và kiểm soát trực tiếp KGB là đặc quyền của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, trong khi Hội đồng Bộ trưởng được trao một vai trò quản lý khiêm tốn hơn: nghe báo cáo về các hoạt động của KGB, bổ nhiệm các phó chủ tịch, phê duyệt cơ cấu và nhân sự của ủy ban và phê duyệt các thành viên của hội đồng - tất cả đều có sự tham vấn của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
 
== Nhiệm vụ ==