Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dị tính luyến ái”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Dòng 24:
''Bài chính: [[Nhân khẩu học của xu hướng tính dục]]''
 
Trong tổng quan nghiên cứu năm [[2016]], Bailey và cộng sự khẳng định họ “cho"cho rằng trong tất cả các nền văn hoáhóa, đại đa số các cá nhân có xu hướng tính dục đặc biệt hướng đến giới tính khác (tức là ''dị tính'') và không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy dữ liệu [[nhân khẩu học]] về xu hướng tính dục thay đổi nhiều theo thời gian hay địa điểm. Các hoạt động tình dục dị tính giữa một nam và một nữ cho tới nay là hoạt động phổ biến nhất trong các [[Hoạt động tình dục của con người|hoạt động tình dục]] theo xu hướng quan hệ ngoài luồng.
 
Dựa trên một số nghiên cứu lớn, có 89% đến 98% người chỉ có một mối quan hệ dị tính trong suốt cuộc đời, nhưng tỉ lệ này giảm xuống còn 79% đến 84% đối với những hấp dẫn và hành vi đồng giới được báo cáo.
 
Một nghiên cứu năm [[1992]] chỉ ra rằng 93.,9% nam giới ở [[Anh]] chỉ từng trải nghiệm quan hệ dị tính một lần, trong khi đó con số này ở [[Pháp]] là 95.,9%. Theo một cuộc thăm dò ý kiến thực hiện năm [[2008]], 85% người Anh chỉ trải qua [[Quan hệ tình dục|quan hệ tình dục khác giới]], và những người Anh nhận dạng bản thân là dị tính chiếm 94%. Tương tự, một khảo sát bởi ''Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh'' (ONS) vào năm [[2010]] cho thấy 95% người Anh nhận dạng bản thân là người dị tính, 1.,5% cho rằng họ là người đồng tính hoặc song tính, và 3.,5% còn lại đưa ra những câu trả lời mơ hồ như “không"không biết”biết" hoặc “khác”"khác", hoặc không phản hồi. Ở [[Hoa Kỳ]], theo báo cáo của viện Williams tháng 4 năm [[2011]], 96% hay gần 250 triệu người trưởng thành là người dị tính.
 
Một cuộc thăm dò ý kiến vào tháng 10 năm [[2012]] của ''Gallup'' cung cấp thông tin mới về số liệu nhân khẩu học của những người nhận dạng là người dị tính, đưa đến kết luận rằng 96.,6% (với sai số ±1%) những [[người Mỹ]] trưởng thành là người dị tính. Kết quả như dưới đây:
{| class="wikitable"
|'''Tuổi/ Giới'''
Dòng 38:
|-
|'''18–29'''
|90.,1%
|6.,4%
|3.,5%
|-
|'''30–49'''
|93.,6%
|3.,2%
|3.,2%
|-
|'''50–64'''
|93.,1%
|2.,6%
|4.,3%
|-
|'''65+'''
|91.,5%
|1.,9%
|6.,5%
|-
| colspan="4" |
|-
|'''18–29, Nữ'''
|88.,0%
|8.,3%
|3.,8%
|-
|'''18–29, Nam'''
|92.,1%
|4.,6%
|3.,3%
|}
Một khảo sát của YouGov năm [[2015]] thực hiện trên 1000 người trưởng thành tại Hoa Kỳ cho kết quả: 89% nhận dạng là người dị tính, 4% là người đồng tính (người đồng tính nam và nữ mỗi bên chiếm 2%) và 4% là người song tính (một trong hai giới tính).
 
Trong tổng quan năm [[2016]], Bailey và cộng sự khẳng định rằng đối với các khảo sát ở [[phương Tây]] thời gian gần, số người dị tính hoàn toàn chiếm 93% ở nam và 87% ở nữ, 4% nam giới và 10% nữ giới không hoàn toàn dị tính.
 
== Nghiên cứu khoa học ==