Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dị tính luyến ái”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Dòng 105:
''Bài chính: Bản dạng tính dục và Linh hoạt tính dục''
 
[[Xu hướng tính dục]] và [[bản dạng xu hướng tính dục]] thường không được phân biệt, điều này có thể ảnh hưởng đến việc đánh giá chính xác [[bản dạng tính dục]] và khả năng thay đổi của xu hướng tính dục; bản dạng xu hướng tính dục có thể thay đổi xuyên suốt cuộc đời của một cá nhân, và có thể có hoặc không đồng dạng với [[giới tính sinh học]], hành vi tình dục hoặc xu hướng tính dục thực sự.<ref>Trang 188 “Nhiều"Nhiều người tin rằng sự mang thai có thể xảy ra khi xuất tinh ngoài…”ngoài"…</ref><ref name=":0">7. “Không"Không có bằng chứng chắc chắn nào có thể nêu lên nguyên do cụ thể của đồng tính luyến ái; tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu đồng ý rằng những yếu tố về [[sinh học]] và xã hội ảnh hưởng tới quá trình hình thành xu hướng tính dục".</ref><ref name=":1">8. “Phần"Phần đông các tổ chức sức khỏe và sức khỏe tâm lí không nhìn nhận rằng xu hướng tính dục là một lựa chọn".</ref> Xu hướng tính dục bền vững và khó thay đổi đối với đa số cá nhân, nhưng một vài nghiên cứu chỉ ra rằng xu hướng tính dục của nhiều người có thể thay đổi, nhất là ở nữ giới. [[Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ]] phân biệt xu hướng tính dục (hấp dẫn bẩm sinh) và bản dạng xu hướng tính dục (có thể thay đổi bất cứ lúc nào).<ref>24. Bogaert lập luận rằng: “Độ"Độ phổ biến của đồng tính nam đang gây tranh cãi. Một ước tính ban đầu được trình diện nhiều là 10% (ví dụ, Marmor, 1980; Voeller,1990). Một số dữ liệu gần đây thể hiện bằng chứng ủng hộ ước tính này (Bagley và Tremblay, 1998), thế nhưng những lần lấy mẫu thử quốc gia trên diện rộng gần đây chỉ ra rằng độ phổ biến của đồng tính ở nam trong xã hội [[phương Tây]] hiện đại, bao gồm [[Hoa Kỳ|Hoa Kì]], thấp hơn ước tính ban đầu này (ví dụ, 1-2% trong nghiên cứu của Billy và những người khác, 1993; 2-3% trong nghiên cứu của Laumann và những người khác, 1994; 6% trong nghiên cứu của Sell và những người khác, 1995; 1-3% trong nghiên cứu của Wellings và những người khác, 1994). Tuy nhiên ta cũng ghi nhận rằng đồng tính luyến ái được [[định nghĩa]] khác nhau trong những nghiên cứu này. Ví dụ, một số nghiên cứu sử dụng hành vi đồng tính chứ không phải thu hút đồng tính làm định nghĩa của đồng tính luyến ái (ví dụ, trong nghiên cứu của Billy và những người khác, 1993); nhiều nhà nghiên cứu tính dục (ví dụ, Bailey cùng một số người khác, 2000; Bogaert, 2003; Money, 1988; Zucker và Bradley,1995) giờ nhấn mạnh sự thu hút hơn là những hành động rõ ràng khi khái niệm hóa xu hướng tính dục.”" (trang 33). Và còn “… độ phổ biến của đồng tính luyến ái ở nam giới (cụ thể là thu hút đồng tính) thay đổi theo thời gian và theo các xã hội (và vì vậy mà là một “mục"mục tiêu di động”động") một phần là do hai tác nhân: (1) sự khác biệt giữa tỉ lệ sinh hay số người trong gia đình; và (2) ảnh hưởng của thứ tự sinh anh em trai. Hơn nữa, dù cho có được đo lường ở một quốc gia tại một thời điểm, tỉ lệ đồng tính luyến ái ở nam giới có thể thay đổi và không thể khái quát chung cho các thời kì hay các xã hội". (trang 33)</ref>
 
Một nghiên cứu năm 2012 kết luận rằng 2% trong số 2560 người trưởng thành tham gia có sự thay đổi trong bản dạng xu hướng tính dục trong thời kì 10 năm. Đối với nam giới, sự thay đổi xảy ra ở 0.,78% người nhận dạng bản thân là dị tính, 9.,52% ở người đồng tính, và 47% ở người [[Song tính luyến ái|song tính]]. Đối với nữ giới, thay đổi diễn ra ở 1.,36% người dị tính, 63.,6% người [[Đồng tính luyến ái|đồng tính]], và 63.,6% người song tính.<ref name=":2">44. “Sự"Sự linh hoạt tính dục là sự linh hoạt phụ thuộc vào tình huống ở khả năng phản hồi về tình dục của một người, khiến cho một vài cá nhân có thể có ham muốn với nam hoặc nữ ở một số trường hợp, dù người đó có xu hướng tính dục chung thế nào… Chúng tôi dự đoán ở tất cả các nền văn hóa phần lớn các cá nhân có khuynh hướng về tình dục duy chỉ với người khác giới (là dị tính) và chỉ một thiểu số các cá nhân có khuynh hướng về tình dục (dù có duy chỉ hay không) với người đồng giới".
 
“Xu"Xu hướng tính dục là một phần sâu kín của căn tính cá nhân và thường thì khá ổn định. Bắt đầu với những cảm xúc nhục dục thuở ban đầu, phần đông mọi người nhớ việc cảm thấy thu hút với người hoặc khác giới hoặc đồng giới. […] Sự thật rằng xu hướng tính dục thường khá ổn định không loại trừ khả năng ở một số người hành vi tình dục có thể thay đổi xuyên suốt quãng đời họ".
 
“Nghiên"Nghiên cứu chỉ ra rằng xu hướng tính dục của nữ giới có nhiều khả năng thay đổi hơn nam giới một chút (Baumeister 2000; Kinnish cùng những người khác, 2005). Khái niệm cho rằng xu hướng tính dục có thể thay đổi theo thời gian được gọi là linh hoạt tính dục. Cho dù linh hoạt tính dục có xảy ra với một số phụ nữ, điều đó không có nghĩa rằng phần lớn phụ nữ sẽ thay đổi tính dục khi lớn tuổi hơn – thực ra, tính dục ở phần lớn mọi người thường ổn định theo thời gian".</ref>
 
Nghiên cứu trong hai năm bởi [[Lisa M. Diamond]] trên 80 người nữ không phải dị tính (từ 16-23 tuổi) báo cáo rằng một nửa những người tham gia đã thay đổi xu hướng tính dục nhiều hơn một lần, một phần ba trong số họ thay đổi trong hai năm sau đó. Diamond kết luận rằng ''“mặc"mặc dù hấp dẫn tình dục khá bền vững, bản dạng và hành vi tính dục linh hoạt hơn”hơn".''<ref name=":3">50. ”Cốt"Cốt lõi của mỗi gia đình là một cặp đôi dị tính nuôi con họ tới tuổi trưởng thành – gọi là gia đình hạt nhân".</ref>
 
Dị tính linh hoạt là một dạng xu hướng tính dục hay hành vi tình dục theo hoàn cảnh, có đặc điểm là hoạt động tình dục đồng giới tối thiểu, đa phần theo xu hướng dị tính luyến ái, để phân biệt với [[song tính luyến ái]]. Nó được miêu tả là "chủ yếu là thẳng".<ref name=":2" />
 
=== Nỗ lực thay đổi xu hướng tính dục ===