Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồ Tá Bang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Mới
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 20:51, ngày 20 tháng 3 năm 2012

Hồ Tá Bang (1875-1943) là một nhà yêu nước Việt Nam thời cận đại.

Tiểu sử

Ông sinh năm Ất Hợi (1875) tại làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế). Sau ông dời vào cư ngụ ở Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (nay là thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận).

Thời niên thiếu ông theo học chữ Hán và chữ Quốc ngữ nhưng không đi thi. Năm Mậu Tuất (1898), ông làm ký lục tại Tòa sứ Phan Thiết; sau đổi về làm ở Tòa sứ Hội An.

Theo tài liệu thì vào khoảng năm Ất Tỵ (1905), trên đường vào Nam, Phan Chu TrinhTrần Quý Cáp có ghé thăm Nguyễn Trọng Lội (ban Hồ Tá Bang) để vận động phong trào Duy Tân. Do chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhà duy tân Nguyễn Lộ Trạch từ lúc còn ở quê nhà, nên khi hiểu được ý nghĩa và mục đích của phong trào này, ông Trạch liền hăng hái tham gia.

Sau đó, ông cùng với Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh (em ông Lội), Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng thành lập:

  • Liên Thành thương quán (tức công ty Liên Thành): làm kinh tế gây quỹ hoạt động, đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhân dân, được thành lập năm 1906.
  • Dục Thanh học hiệu (tức Trường Dục Thanh): dạy cho con em người yêu nước và lao động nghèo theo nội dung yêu nước và tiến bộ, được thành lập năm 1907.

Khoảng tháng 8 năm 1910, Hồ Tá Bang cùng Trương Gia Mô đưa con của bạn (Nguyễn Sinh Sắc) là Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) vào Sài Gòn tìm đường sang Pháp [1]. Xong việc, ông Bang trở ra điều hành trường Dục Thanh và làm “Tổng lý” Công ty Liên Thành gần 30 năm.

Năm Quý Mùi (1943), Hồ Tá Bang mất, thọ 68 tuổi, được an táng tại đồn điền của ông cách thị xã Phan Thiết (nay là thành phố Phan Thiết) hơn 10 km.

Trước khi mất ông có câu đối khắc ở sinh phần[2]:

Sinh vi nô lệ sinh do tử;
Tử hữu tinh thần tử nhược sinh.

Nghĩa là:

Sống làm nô lệ sống như chết
Chết có tinh thần chết như sống.

Tư cách và đức độ của Hồ Tá Bang được nhân dân và sĩ phu kính trọng. Sinh thời, ông có sáng tác văn chương. Thơ văn ông thấm đượm tinh thần yêu nước, tiêu biểu là bài "Tế thủ tiền lỗ văn" (văn tế bọn bo bo giữ tiền) đăng trên báo Lục tỉnh tân văn số ngày 24 tháng 3 năm 1908Sài Gòn.

Con ông là bác sĩ Hồ Tá Khanh cũng là một nhân sĩ. Năm 1945, ông có chân trong nội các Trần Trọng Kim.

Sách tham khảo chính

  • Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, mục từ "Hồ Tá Bang" trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, 1992.

Chú thích

  1. ^ Xem thêm: "Nơi 100 năm trước Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước" trên website báo Nhân dân điện tử [1].
  2. ^ Sinh phần là ngôi mộ làm sẵn từ khi còn sống