Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tục tư trị thông giám”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 230:
*Quyển 219: Nguyên kỉ 37: Từ Bính Ngọ (1366) đến tháng 6 Đinh Mùi (1367), Huệ Tông Chí Chánh năm thứ 26 đến năm thứ 27, gồm 1 năm có dư
*Quyển 220: Nguyên kỉ 38: Từ tháng 7 Đinh Mùi (1367) đến tháng 7 Mậu Thân (1368), Huệ Tông Chí Chánh năm thứ 27 đến năm thứ 28, gồm 1 năm có dư
==Ảnh hưởng==
Cứ liệu sớm nhất nhắc đến nhân vật [[Khúc Thừa Dụ]] (曲承裕) là ''[[Tục tư trị thông giám]]'' của tác giả [[Tất Nguyên]] triều [[Thanh Thế Tông|Càn Long]] (giữa thế kỉ XVIII), sau được Nguyễn triều Quốc Sử quán ''[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục]]'' chép nguyên văn : "''Năm Đinh Mão [907], (Đường Thiên Hựu thứ 4, Lương Thái Tổ hiệu Khai Bình thứ 1). Khúc Thừa Dụ mất, con là Hạo giữ Giao châu, tự xưng tiết độ sứ. Khúc Hạo nhờ vào cơ nghiệp cũ, giữ lấy La thành, cũng xưng tiết độ sứ. [Ông] chia lộ phủ châu xã các xứ ; đặt chính lệnh trưởng và tá lệnh trưởng, bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch ; lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi. Chính trị cốt chuộng khoan dung giản dị, nhân dân đều được yên vui. Khi đó, nhà Lương dùng tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm lĩnh chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và phong tước Nam Bình vương. Lưu Ẩn giữ thành Phiên Ngung. Khúc Hạo giữ Giao châu, [cũng] tự xưng tiết độ sứ, hai bên chực thôn tính lẫn nhau. Lời chua : Khúc Hạo - Theo sách An Nam Kỉ Yếu, Khúc Hạo người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay Độc Cô Tổn, đổi các hương ở huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được bốn năm thì mất. Nay xét việc chép trong An Nam Kỉ Yếu có hơi khác với lời sử cũ, xin ghi cả hai để tham khảo''".
 
Ngoài ra, các thư tịch trước đó đều không chép gì nhân vật này, nên chăng là sự sót lầm của học giả đời Thanh trong quá trình tầm khảo tư liệu.
* ''[[An Nam chí lược]]'' ([[Đại Nguyên]]) : "''Cuối đời Đường, thổ hào Giao Châu Ái Châu là các họ Khúc Dương Kiểu Ngô nối nhau thoán đoạt, trong thời gian chừng năm sáu chục năm. [...] Khúc Hạo chiếm cứ Giao Chỉ. Lúc ấy, Lưu Ẩn chiếm cứ Phiên Ngung. Ẩn chết, con là Lưu Nghiễm kế lập, xưng quốc hiệu Nam Hán. Khúc Hạo khiến con là Thừa Mĩ qua làm khuyến hảo sứ, đến Quảng Châu dò xét thực hư. Hạo chết, Thừa Mĩ kế ngôi cha. Năm Kỉ Mão, hiệu Trinh Minh nhà Lương nguyên niên [915], [ông] khiến sứ tiến cống, cầu lĩnh tiết việt, nhà Lương nhân trao cho. Lưu Nghiễm cả giận, tháng 9 năm Đại Hữu thứ 3 [930] đời ngụy Hán [Nam Hán], khiến kiêu tướng Lương Khắc Chính đem binh đến đánh, bắt Thừa Mĩ về. Khắc Chính lưu giữ Giao Chỉ, sau bị Dương Đình Nghệ đuổi''".
* ''[[Đại Việt sử lược]]'' ([[An Nam]] [[Trần triều]]) : "''Khúc Hạo vào năm đầu niên hiệu Khai Bình nhà Lương [907] lên thay Độc Cô Tổn làm tiết độ sứ. Khúc Toàn Mĩ là em trai Khúc Hạo vậy. Đời vua Minh Tông [926 – 933] triều Hậu Đường, [Khúc Toàn Mĩ] thay Khúc Hạo làm tiết độ sứ. Sau, Khúc Toàn Mĩ bị tướng Nam Hải là Lương Khắc Chân bắt đưa về Nam Hán rồi cho Nguyễn Tiến [tức Lý Tiến, thời Trần kị chữ Lý nên phải đổi Nguyễn] sang thay. [...] Năm đầu niên hiệu Trường Hưng [930] đời Minh Tông triều Hậu Đường, chúa Nam Hán là Lưu Cung sai tướng là bọn Lương Khắc Chân sang đánh Giao châu ta, bắt được quan tiết độ sứ Khúc Toàn Mĩ, rồi cho tướng Nguyễn Tiến thay''".
* ''[[Đại Việt sử kí toàn thư]]'' ([[An Nam]] [[Hậu Lê triều|Lê triều]]) : "''Đinh Mão [907], (Đường Thiên Hựu năm thứ 4, Lương Thái Tổ Chu Toàn Trung cải danh là Hoảng, lấy hiệu Khai Bình nguyên niên). Nhà Lương cho Quảng Châu tiết độ sứ Lưu Ẩn kiêm chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, tước Nam Bình vương. Khi ấy, Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người Giao châu là Khúc Hạo chiếm giữ châu trị, xưng tiết độ sứ, có mưu đồ lẫn nhau. Năm ấy nhà Đường mất. [...] Đinh Sửu [917], (Lương Mạt Đế Hữu Trinh cải danh Chẩn, hiệu Trinh Minh năm thứ 3). Quảng Châu tri lưu hậu nhà Lương là Lưu Nham đặt quốc hiệu Hán [Nam Hán], niên hiệu Càn Hanh thứ nhất. Khúc Hạo sai con là Thừa Mĩ làm hoan hảo sứ sang Quảng Châu thăm dò tình hình [Nam Hán] hư thực thế nào. Hạo chết, Khúc Thừa Mĩ lên thay. [...] Kỉ Mão [919], (Lương Trinh Minh năm thứ 5). Khúc Thừa Mĩ sai sứ sang nhà Lương xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương ban cho. Vua [Nam Hán] cả giận. [...] Quý Mùi [923] (Lương Long Đức năm thứ 3, Đường Trang Tông Lý Tồn Húc, hiệu Đồng Quang nguyên niên), nhà Lương mất. Mùa thu tháng Bảy, vua Hán sai kiêu tướng Lý Khắc Chính đem quân đánh Giao châu, bắt được tiết độ sứ [Khúc] Thừa Mĩ về, [Khắc Chính] lấy bộ tướng của mình là Lý Tiến thay. Lý Khắc Chính ở lại giữ Giao châu, bị tướng của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ người Ái châu đánh đuổi. Vua Hán trao Đình Nghệ tước vị, lấy Lý Tiến làm thứ sử Giao Châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành, bảo tả hữu rằng : Dân Giao Chỉ hay làm loạn, [ta] chỉ ki mi được thôi. [...] Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn : Lưu Nghiễm đương lúc triều đình phương Bắc rối loạn, nhờ nghiệp cũ của anh mà dựng nước, đặt niên hiệu, cùng với Khúc Hạo tranh bá, rồi bắt Thừa Mĩ, lấy Giao châu, hùng cứ một phương, cùng sánh được các nước tiếm ngôi ở Bắc triều. Cho nên, Tiền Ngô vương nổi lên, tuy giết được con, phá được quân [Nghiễm], nhưng không giữ được đất, quốc thống họ Lưu kéo dài không dứt, mãi đến khi Tống [Thái] Tổ dấy lên thì đất ấy mới nhập vào nhà Tống''".
{{cquote|''Các nghiên cứu gia ngoại quốc như [[Li Tana]], [[Keith Weller Taylor]], [[Liam C. Kelley]], [[Shiraishi Masaya]]... có cái nhìn khá trung lập về lịch sử Việt Nam cổ trung đại. Họ không bị ám ảnh bởi những "tư tưởng" về "chủ nghĩa dân tộc" hay "lòng yêu nước", ngược lại, họ "giải ảo" và trình bày lịch sử Việt Nam theo hướng khác chứ không lặp theo mô thức quen thuộc của các sử gia Việt Nam. Mà tôi thấy, những nhà nghiên cứu đó rất giỏi sinh ngữ, đặc biệt là họ phải giỏi Hán văn nên mới có thể đọc được các tài liệu gốc thời trung đại, thứ mà ngay nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cũng không muốn hoặc không biết đọc.''|||[[Trần Nguyễn Tuấn]]<ref>Hội luận ''Sự trỗi dậy của Đại Việt quốc trong thế kỉ XV'', [[Sài Gòn]], 21 tháng 12 năm 2015.</ref>, khoa Lịch Sử trường ĐH KHXHNV QG [[thành phố Hồ Chí Minh]]}}
==Tham khảo==
{{tham khảo}}