Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ nghĩa xã hội”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã khóa “Chủ nghĩa xã hội”: bút chiến ([Sửa đổi=Chỉ cho phép các thành viên được xác nhận mở rộng và bảo quản viên] (hết hạn 07:02, ngày 6 tháng 1 năm 2021 (UTC)) [Di chuyển=Chỉ cho phép các thành viên được xác nhận mở rộng và bảo quản viên] (hết hạn 07:02, ngày 6 tháng 1 năm 2021 (UTC))) |
tạm lùi bản của Good morning |
||
Dòng 2:
{{1000 bài cơ bản}}
{{bài cùng tên}}
[[hình:Socialists in Union Square, N.Y.C..jpg|nhỏ|upright=1.5|300px|right|Biểu tình của những người theo chủ nghĩa xã hội vào [[Ngày Quốc tế Lao động]] 1912 tại Union Square ở [[Thành phố New York]]]]▼
{{Đảng phái chính trị}}
▲[[hình:Socialists in Union Square, N.Y.C..jpg|nhỏ|
'''Chủ nghĩa xã hội''' ({{lang-de|Sozialismus}}; {{lang-en|Socialism}}) là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong thế kỷ 19 bên cạnh [[chủ nghĩa tự do]] và [[chủ nghĩa bảo thủ]]. Không có định nghĩa rõ ràng về chủ nghĩa xã hội mà nó bao gồm một loạt các khuynh hướng chính trị từ các phong trào đấu tranh chính trị và các đảng công nhân có tinh thần cách mạng, những người muốn lật đổ [[chủ nghĩa tư bản]] nhanh chóng và bằng bạo lực cho tới các dòng cải cách chấp nhận [[Thể chế Đại nghị]] và [[dân chủ]] như [[chủ nghĩa xã hội dân chủ]], thậm chí phát xít Đức cũng tự nhận mình là những người theo [[Chủ nghĩa quốc xã|chủ nghĩa xã hội]]. Theo đó, có sự phân biệt giữa những khuynh hướng [[chủ nghĩa cộng sản]], [[dân chủ xã hội]] và [[vô chính phủ]]. Những người theo chủ nghĩa xã hội thường nhấn mạnh giá trị cơ bản như [[bình đẳng]], [[công bằng]] và [[đoàn kết]] và đề cao mối quan hệ chặt chẽ giữa những phong trào xã hội và lý thuyết phê phán xã hội. Họ theo đuổi mục tiêu tạo ra một trật tự xã hội hòa hợp và hướng đến công bằng xã hội.
Hàng 13 ⟶ 14:
Trong lịch sử các tư tưởng chính trị, các nhân tố của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện trước khi được khái quát lại thành hệ thống lý luận trong nửa đầu thế kỷ 19.
[[File:New Harmony, Indiana, por F. Bates.jpg|300px|right|thumb|[[New Harmony, Indiana|New Harmony]], nỗ lực xây dựng một xã hội Utopia hoàn hảo theo đề xuất của [[Robert Owen]]]]
Tác phẩm ''Cộng hòa'' ([[tiếng Hy Lạp]]: Πολιτεία ''Politeia'') của [[Platon|Plato]] hay tác phẩm ''Utopia'' (Thế giới không tưởng) của [[Thomas More]] là hai dẫn chứng<ref>[http://www.britannica.com/eb/article-9109587/socialism ''Encyclopedia Britannica'', entry on Socialism]</ref>. Phong trào [[Mazdak]] trong thế kỷ thứ 5, diễn ra ở vùng mà bây giờ là [[Iran]], đã được tả là "có tính chất cộng sản" do đã thách thức nhiều quyền lợi của tầng lớp quý tộc và tăng lữ, đồng thời đấu tranh cho một xã hội quân bình<ref>''The Cambridge History of Iran'' Volume 3, [http://www.derafsh-kaviyani.com/english/mazdak.html The Seleucid, Parthian and Sasanian Period], edited by Ehsan Yarshater, Parts 1 and 2, p1019, Cambridge University Press (1983)</ref>. [[William Morris]] cho rằng [[John Ball]], một trong những lãnh đạo của [[cuộc khởi nghĩa nông dân ở Anh]] vào năm 1381, là người theo chủ nghĩa xã hội đầu tiên<ref>Morris, William, ''[http://www.gutenberg.net/etext/357 Dream of John Ball: A King's Lesson]'' Project Gutenberg, truy cập 11 July, 2007</ref>. John Ball được công nhận là đã nói câu nói nổi tiếng sau đây:
:''"When Adam delved and Eve span, Who was then the gentleman?"'' (Khi Adam đào đất, và Eve quay sợi, Thì ai là quý ông ?<ref>[http://www.1911encyclopedia.org/John_Ball_(Priest) 1911 Encyclopædia Britannica] Chữ "gentleman" trong câu này có nghĩa là "người chủ", người mà có thể kiếm sống bằng các nguồn thu nhập từ sự sở hữu đất đai hay tài sản. Theo như Kinh Thánh, Eve và Adam phải làm việc mệt nhọc nhưng không có chủ để phải trả tiền thuê.</ref>)
Hàng 21 ⟶ 22:
Suốt [[thời kỳ Khai sáng]] trong [[thế kỷ 18]], sự phê bình về bất bình đẳng đã xuất hiện trong tác phẩm của những nhà lý luận như [[Jean-Jacques Rousseau|Jean Jacques Rousseau]] ở [[Pháp]], tác phẩm ''Du contrat social'' (Kế ước xã hội) của ông bắt đầu với ''"Con người được sinh ra tự do, và đâu đâu anh ta cũng ở trong xiềng xích"''<ref>Rousseau, Jean-Jacques, ''Social Contract'', p2, Penguin, (1968)</ref>. Sau [[Cách mạng Pháp]] năm 1789, [[François Noël Babeuf]] ủng hộ mục tiêu quyền sở hữu chung về đất đai và sự bình đẳng toàn diện về kinh tế và chính trị giữa các công dân.
===Thế kỷ 19 đến nay===▼
▲===Thế kỷ 19===
Phong trào xã hội hiện nay bắt đầu từ phong trào của giai cấp lao động cuối [[thế kỷ 19]]. Trong thời gian đó, cụm từ "chủ nghĩa xã hội" thường được dùng để nói về những phê phán của các nhà phê bình xã hội [[châu Âu]] khi họ phê bình [[chủ nghĩa tư bản]] về quyền tư hữu. Đối với [[Karl Marx]], người đã có công lớn trong việc xây dựng phong trào xã hội chủ nghĩa hiện đại, thì chủ nghĩa xã hội là một hệ thống kinh tế - xã hội sau khi một cuộc cách mạng đã nổ ra để chuyển quyền điều khiển các phương tiện sản xuất từ tay của thiểu số các nhà tư bản sang tay xã hội. Theo [[Friedrich Engels]] thì phong trào xã hội chủ nghĩa năm 1847 là một phong trào tư sản, chủ nghĩa cộng sản là một phong trào của công nhân, vì vậy [[Karl Marx]] và Engels ưa chuộng từ cộng sản hơn. Mãi cho tới 1887 cả các công đoàn Anh mới tự nhận là theo xã hội chủ nghĩa.<ref>Friedrich Engels: Vorwort zur deutschen Ausgabe von 1890 (Auszug) zum „Kommunistischen Manifest“, Marx/Engels, Ausgewählte Schriften, Bd. I, Berlin 1968, S. 21ff.</ref> Theo nhà báo [[Hoàng Đạo (nhà văn)|Hoàng Đạo]] (tức Nguyễn Tường Long) trên báo Ngày nay ngày 3 tháng 4 năm 1937, thì "''Năm ấy, Marx và Engels, đồng chí của ông ta, xuất bản [[Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản]] nói về nguyên tố của chủ nghĩa xã hội. Hai ông dùng chữ "cộng sản" là vì muốn phân biệt cho rõ ràng chủ nghĩa xã hội khoa học với những chủ nghĩa xã hội duy tâm mà thời ấy người ta thường gọi chung là "xã hội". Dần dà, những chủ nghĩa duy tâm bị lu mờ, và đến năm 1867, lúc ông Karl Marx cho xuất bản tập thứ nhất quyển "Tư bản" (Le Capital), thì những người theo chủ nghĩa duy tâm không còn mấy nữa''".
Có rất nhiều tư tưởng và phong trào được gọi, hay tự gọi, là chủ nghĩa xã hội nhưng từ thế kỷ 19 đến nay, những người theo chủ nghĩa xã hội đã không thể đưa ra một tư tưởng hay một kế hoạch chung. Trái lại, những người theo chủ nghĩa xã hội tự chia họ ra nhiều trường phái khác nhau và đôi khi đối nghịch nhau, nhất là giữa những người theo [[chủ nghĩa xã hội dân chủ]] và những người theo [[chủ nghĩa cộng sản]]. Kể từ thế kỷ 19 những người theo chủ nghĩa xã hội đã có những quan điểm khác nhau về chủ nghĩa xã hội dưới góc độ một hệ thống kinh tế. Một số người muốn quốc hữu hóa hoàn toàn các phương tiện sản xuất, trong khi những người [[chủ nghĩa xã hội-dân chủ|dân chủ xã hội]] đề nghị chỉ quốc hữu hóa một số kỹ nghệ chính trong phạm vi của một nền [[kinh tế hỗn hợp]] giữa thị trường và nhà nước.
[[Tập tin:Anti-capitalism color.jpg|phải|nhỏ|250px|Áp phích [[Industrial Workers of the World]] của phong trào chống chủ nghĩa tư bản (anti-capitalism) dán năm [[1911]]. Hình nói về sự mâu thuẫn [[giai cấp]] giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới trong xã hội tư bản: dưới cùng là giai cấp lao động phải làm việc để gánh vác lối sống xa hoa cho các giai cấp trên (vua chúa, chính phủ, các nhà tư bản, giáo sĩ và quân đội)]]
Cuộc chiến về lý luận và chính trị giữa những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội là trung tâm của các sự kiện thế giới trong suốt thế kỷ XX. Những người theo chủ nghĩa xã hội hay ủng hộ chủ nghĩa xã hội công kích chủ nghĩa tư bản đã gây ra bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo, chế độ đẳng cấp, nạn bóc lột lao động, lối sống thực dụng, tha hoá con người. Họ cũng công kích những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản dung dưỡng, dung túng cho nhiều chế độ [[chế độ quân chủ|quân chủ]], [[thần quyền]] (như một số nước [[Trung Đông]] và một số nước khác hiện nay), cho chủ nghĩa [[phong kiến]] và [[địa chủ]], các hủ tục, cho các chế độ [[phân biệt chủng tộc]] (như [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]]). Chủ nghĩa tư bản theo họ là cha đẻ cho [[chủ nghĩa thực dân]] và [[chủ nghĩa đế quốc]], hay thao túng kinh tế các nước nghèo đói. Những người chống Cộng đổ lỗi cho chủ nghĩa xã hội gây ra nhiều cuộc [[nội chiến]], các cuộc cách mạng (mà họ thường gọi là đảo chính hay nổi loạn), sự cưỡng ép các mô hình kinh tế tập thể hay nhà nước gây nghèo đói, tham nhũng, tước đoạt quyền tư hữu. Họ cho các nạn đói trên diện rộng ở [[Trung Quốc]], [[Campuchia]],... một số nước [[châu Phi]] trước đây là hậu quả của kinh tế hợp tác cưỡng ép. Họ cũng cho chủ nghĩa xã hội cản trở [[tự do kinh doanh]] của người dân, để [[nhà nước]] thao túng toàn bộ các hoạt động xã hội như kinh tế, [[truyền thông]], [[giáo dục]], [[y tế]]..., gây bất bình đẳng, chậm phát triển. Đường lối chống [[tôn giáo]] của một số phái chủ nghĩa xã hội bị xem là cực đoan. Nhiều người chống Cộng cũng đổ lỗi cho chủ nghĩa xã hội tạo ra các chế độ cai trị độc đoán ở [[Bắc Phi]], [[Zimbabwe]], [[Syria]], [[Iraq]], [[Myanmar|Miến Điện]] trước đây, các chế độ độc đoán của [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]] ([[Liên Xô]]), [[Mao Trạch Đông]] ([[Trung Quốc]]), [[Nicolae Ceauşescu]] ở [[România]],... chế độ diệt chủng [[Pol Pot]] ở [[Campuchia]].<ref name="hup.harvard.edu">{{chú thích sách |title= The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression | editor1-last = Courtois | editor1-first = Stéphane | editor1-link = |coauthors= |year= 1999 |publisher= [[Harvard University Press]] |location= |isbn= 0-674-07608-7 |page= 4 |pages= |url= |accessdate=}}</ref> Cả hai phía chống và ủng hộ chủ nghĩa xã hội đều đổ lỗi cho nhau trong sự xuất hiện của [[chủ nghĩa phát xít]] dù trên thực tế ý thức hệ này mang những đặc điểm của cả cánh hữu lẫn cánh tả và thực hiện một chương trình hành động tương tự với cả hai bên
Ngược các lực lượng cánh hữu thường tập trung vào các vấn đề [[quyền tự do|tự do]], dân chủ, nhân quyền, hay quyền lợi dân tộc, mà ít coi trọng đến giải quyết các vấn đề về xã hội như phân hóa giàu - nghèo, tình trạng thất nghiệp, hay các vấn đề xã hội khác như giáo dục, y tế, an sinh xã hội, các lực lượng cánh tả các nước tư bản chú ý nhiều hơn đến các khía cạnh này, đấu tranh nhiều hơn cho các lĩnh vực bình đẳng giới hay bảo vệ môi trường,... và thường ít chú ý hơn đến các vấn đề về chống [[độc tài]] và vi phạm quyền cá nhân, mặc dù tôn trọng dân chủ đại nghị. Tuy nhiên sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, xuất hiện các tư tưởng thiên hữu nhiều hơn trong các lực lượng cánh tả, họ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề về [[dân chủ]] và [[nhân quyền]], và chú trọng vào hiệu quả kinh tế hơn là bình đẳng.<ref>Socialist Planning after the Collapse of the Soviet Union, Allin Cottrell and W. Paul Cockshott, Revue européenne des sciences sociales, T. 31, No. 96, The Socialist Calculation debate after the Upheavals in Eastern Europe (1993), pp. 167-185</ref> Những người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ thường dựa trên lập trường của [[chủ nghĩa cá nhân]], vì thế họ thường coi trọng các vấn đề dân chủ và nhân quyền. Chủ nghĩa tư bản hỗ trợ cho quá trình xóa bỏ nhà nước quân chủ thần quyền ở châu Âu, tuy nhiên nền [[dân chủ đại nghị]] được xây dựng sau đó thường mang nhiều khiếm khuyết và chỉ được hoàn thiện thêm các giai đoạn sau này. Nhìn chung sự xích lại gần nhau của các lực lượng cánh hữu và cánh tả như sự chấp nhận nhiều hơn của [[cánh hữu]] trong vấn đề [[an sinh xã hội]] hay tạo việc làm, tạo điều kiện cho các tổ chức [[công đoàn]] hoạt động, mở rộng phổ thông đầu phiếu, hay cánh tả trong bảo vệ các quyền cá nhân, kể cả quyền tư hữu và kinh doanh đã làm cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội xích lại gần nhau hơn. Chia sẻ quan điểm về dân chủ nhưng bất đồng về vai trò nhà nước là đặc điểm thường thấy ở các nước phát triển của cánh tả và hữu. Cánh hữu không mấy tin tưởng ở nhà nước, tạo không gian lớn hơn cho thị trường tự điều tiết, còn cánh tả muốn nhà nước có vai trò lớn hơn trong điều tiết kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên các mô hình kinh tế của [[cánh tả]] thường chỉ thích nghi trong một số hoàn cảnh nhất định, và được xem là tạo ra năng suất lao động thấp, đặc quyền đặc lợi và tham nhũng do hệ thống quản lý yếu kém ở một số nước, cũng như can thiệp nhà nước thái quá gây bất bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trường, xã hội hóa không thực hiện được và hay biến tướng thành nhà nước hóa [[tư liệu sản xuất]], nên ảnh hưởng cánh tả nhiều nơi suy yếu. Song sự trỗi dậy của cánh hữu nhiều nơi đi kèm với [[toàn cầu hóa]] của chủ nghĩa tư bản đã gây ra nhiều hệ quả ở các nước như sự phân hóa xã hội ngày càng lớn, quan hệ sản xuất tư bản vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố bất bình đẳng do luật pháp yếu kém, các chính sách đầu tư nước ngoài ở các nước kém phát triển thường đem lại lợi ích trước mắt nhưng có thể gây tổn hại cho các lợi ích lâu dài bị cánh tả xem là [[chủ nghĩa thực dân mới]], tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng, sự suy đồi đạo đức... Các nền dân chủ đại nghị có nhiều ưu điểm nhưng vẫn tồn tại khuyết điểm và tạo điều kiện cho tư tưởng cực đoan phát triển như tư tưởng vô chính phủ (chán ghét nhà nước bất kỳ, không tin tưởng các đảng phái)... hay là các phong trào chính trị tôn giáo cực đoan như phong trào [[Hồi giáo cực đoan]] chống lại chủ nghĩa tư bản hay văn hóa, tôn giáo du nhập từ phương Tây và chủ nghĩa vô thần.<ref>[https://www.fpri.org/article/2006/09/islam-islamism-and-democratic-values/ Islam, Islamism and democratic values], Foreign Policy Research Institute, 2006</ref>▼
▲Nhìn chung sự xích lại gần nhau của các lực lượng cánh hữu và cánh tả như sự chấp nhận nhiều hơn của [[cánh hữu]] trong vấn đề [[an sinh xã hội]] hay tạo việc làm, tạo điều kiện cho các tổ chức [[công đoàn]] hoạt động, mở rộng phổ thông đầu phiếu, hay cánh tả trong bảo vệ các quyền cá nhân, kể cả quyền tư hữu và kinh doanh đã làm cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội xích lại gần nhau hơn. Chia sẻ quan điểm về dân chủ nhưng bất đồng về vai trò nhà nước là đặc điểm thường thấy ở các nước phát triển của cánh tả và hữu. Cánh hữu không mấy tin tưởng ở nhà nước, tạo không gian lớn hơn cho thị trường tự điều tiết, còn cánh tả muốn nhà nước có vai trò lớn hơn trong điều tiết kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên các mô hình kinh tế của [[cánh tả]] thường chỉ thích nghi trong một số hoàn cảnh nhất định, và được xem là tạo ra năng suất lao động thấp, đặc quyền đặc lợi và tham nhũng do hệ thống quản lý yếu kém ở một số nước, cũng như can thiệp nhà nước thái quá gây bất bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trường, xã hội hóa không thực hiện được và hay biến tướng thành nhà nước hóa [[tư liệu sản xuất]], nên ảnh hưởng cánh tả nhiều nơi suy yếu. Song sự trỗi dậy của cánh hữu nhiều nơi đi kèm với [[toàn cầu hóa]] của chủ nghĩa tư bản đã gây ra nhiều hệ quả ở các nước như sự phân hóa xã hội ngày càng lớn, quan hệ sản xuất tư bản vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố bất bình đẳng do luật pháp yếu kém, các chính sách đầu tư nước ngoài ở các nước kém phát triển thường đem lại lợi ích trước mắt nhưng có thể gây tổn hại cho các lợi ích lâu dài bị cánh tả xem là [[chủ nghĩa thực dân mới]], tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng, sự suy đồi đạo đức... Các nền dân chủ đại nghị có nhiều ưu điểm nhưng vẫn tồn tại khuyết điểm và tạo điều kiện cho tư tưởng cực đoan phát triển như tư tưởng vô chính phủ (chán ghét nhà nước bất kỳ, không tin tưởng các đảng phái)... hay là các phong trào chính trị tôn giáo cực đoan như phong trào [[Hồi giáo cực đoan]] chống lại chủ nghĩa tư bản hay văn hóa, tôn giáo du nhập từ phương Tây và chủ nghĩa vô thần.<ref>[https://www.fpri.org/article/2006/09/islam-islamism-and-democratic-values/ Islam, Islamism and democratic values], Foreign Policy Research Institute, 2006</ref>
[[Tập tin:1989 CPA 6101.jpg|nhỏ|phải|200px|[[Kwame Nkrumah]], tổng thống đầu tiên của [[Ghana]], một trong những người đề xướng thuật ngữ Chủ nghĩa thực dân mới, ảnh trên tem thư Liên Xô (1989)]]
Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản đã hỗ trợ đắc lực cho [[chủ nghĩa thực dân]] sau các phát kiến địa lý mà chủ yếu là ở các vùng đất mới như châu Mỹ, mặc dù nó được xem là hệ quả của chính sách các chính quyền quân chủ đương thời nhiều hơn. Các công ty tư bản còn lập ra các hải đội để xâm chiếm [[thuộc địa]] ở các vùng đất nghèo nàn, lạc hậu hơn như châu Á, châu Phi... Tuy nhiên các quá trình xâm chiếm chiếm thuộc địa bị gián đoạn trong giai đoạn [[châu Âu]] xảy ra nhiều cuộc cách mạng, chiến tranh đầu thế kỷ XIX. Chủ nghĩa tư bản một lần nữa góp phần tạo dựng lên [[chủ nghĩa đế quốc]] nửa sau thế kỷ XIX, mặc dù nó hay được xem là hệ quả của chính sách quân phiệt, hay dân tộc nước lớn nhiều hơn. Quá trình thực
==
[[Tập tin:Red rose 02.svg|200px|nhỏ|phải|Hoa hồng đỏ, biểu trưng của phong trào dân chủ xã hội]]▼
Mục tiêu của tất cả các phong trào theo chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội công bằng hơn [[chủ nghĩa tư bản]], nhưng họ thường bất đồng trong các quan điểm về chủ nghĩa xã hội, cách thức cải tạo chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, mô hình [[nhà nước]], vai trò nhà nước trong nền kinh tế, mô hình quản lý sản xuất. Khác với những người theo chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ hay vô chính phủ, [[chủ nghĩa xã hội tự do cá nhân]], hầu hết các trường phái chủ nghĩa xã hội đều đề cao vai trò của nhà nước. Hai trường phái chủ nghĩa xã hội cơ bản là trường phái [[chủ nghĩa xã hội dân chủ]] và chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu của những người cộng sản không chỉ đề cao vai trò của nhà nước, sở hữu nhà nước mà tiến tới một xã hội cộng sản. Theo lý luận của những người cộng sản, nhất thiết cần tiến hành [[cách mạng vô sản]] để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tuy nhiên không phải là nhất thiết trong mọi hoàn cảnh. Thực tế là những người cộng sản cũng tham gia đấu tranh nghị trường nếu tự do tư tưởng và tự do chính trị được bảo đảm.▼
Chấp thuận kinh tế thị trường hoặc kinh tế phi thị trường cũng là một tranh cãi trong nội bộ những người xã hội chủ nghĩa. Một số trường phái cho rằng cần xóa bỏ kinh tế thị trường, vì nó dẫn đến bất bình đẳng xã hội và khủng hoảng kinh tế. Các trường phái ủng hộ kinh tế thị trường cho rằng chỉ cần có bàn tay nhà nước hoặc thể chể khác để điều chỉnh thị trường theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên có một số đặc điểm chung phổ quát trên lý thuyết: ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế và đời sống xã hội, công bằng xã hội (dù lý giải khác nhau), dân chủ cho đa số, đề cao sự hòa hợp xã hội, chống chủ nghĩa dân tộc ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân ích kỷ. Sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản đặc biệt là sự đa dạng hóa trong [[sở hữu]] và quản lý gây khó khăn và làm phân hóa thêm những người theo chủ nghĩa xã hội.▼
Theo quan điểm của
* ''Về mục tiêu, xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.''
▲==== Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ====
▲Theo quan điểm của Lenin, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Luận điểm mang tính dự báo của Marx, Engels về xã hội xã hội chủ nghĩa và quan điểm của Lenin từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Soviet cho thấy ''mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.''
Tính nhân đạo, nhân văn của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản thể hiện
* ''Về kinh tế, xã hội xã hội chủ nghĩa phải dựa trên lực lượng sản xuất phát triển cao; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập; tổ chức quản lý có hiệu quả, năng suất lao động cao; phân phối theo lao động là chủ yếu.''
Khi phân tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
Chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột của những người kia. Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là: xoá bỏ chế độ tư hữu. Xóa bỏ chế độ tư hữu, xác lập từng bước chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
Theo Hồ Chí Minh, ''“Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước chúng tôi những điều kiện ấy chưa có đủ”''.
* ''Về chính trị - xã hội, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội dân chủ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp công nhân vừa mang tính nhân dân rộng rãi.'' Xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ, quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện trước hết nó là một công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân. Song lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản là thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động, do vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn mang tính nhân dân rộng rãi.
* ''Về văn hóa – tư tưởng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền văn hoá phát triển cao; kế thừa và phát huy những giá trị của văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại.'' Trong các chế độ dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân sẽ dẫn đến tình trạng tha hóa con người, tha hoá của người lao động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, con người có đầy đủ điều kiện tiến từ "vương quốc tất yếu" sang "vương quốc tự do". Phát triển văn hoá, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động trở thành một nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa đột phá để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
*''Về quan hệ dân tộc, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội bảo đảm công bằng, bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc.'' Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản",
*''Về quan hệ quốc tế, quan hệ giữa dân tộc và quốc tế được giải quyết trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.''
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là những biện pháp, tiến trình, lực lượng, động lực… để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
▲[[Tập tin:Lenin 1920.jpg|nhỏ|phải|Lenin]]
Về tiến trình, thực hiện 2 bước của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bước thứ nhất, giai cấp công nhân giành lấy chính quyền bằng nhiều biện pháp: bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến; biện pháp hòa bình là “hiếm và quý”. Bước thứ hai , xây dựng chủ nghĩa xã hội, bao gồm: cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội (về kinh tế, chính trị, xã hội, con người…).
[[Chủ nghĩa Marx – Lenin]] cũng đã phác thảo những nét căn bản như sau: ▼
▲[[Chủ nghĩa Marx – Lenin|Chủ nghĩa Mác – Lênin]] cũng đã phác thảo những nét căn bản như sau:
* ''Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội.''
*''Hai là, xác định rõ thực chất, nội dung, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.'' Khi luận giải về ''qui luật phát triển lịch sử - tự nhiên'' của xã hội loài người trải qua các hình thái kinh tế - xã hội,
*''Ba là, không ngừng mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên nền tảng là liên minh công - nông và các tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.'' Dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản là liên minh công – nông. Mặt khác từ thực tiễn, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga,
*''Bốn là, đi lên chủ nghĩa xã hội cần kế thừa những giá trị quý báu trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa và của nhân loại.''
*''Năm là, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vừa có tính phổ biến vừa mang nét đặc thù, các dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội không hoàn toàn giống nhau mà mang theo đặc điểm của mình.'' Mặc dù khẳng định tính phổ biến trong tiến trình phát triển chung của xã hội loài người và tính thống nhất trong mục tiêu chung là chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ nghĩa
*''Sáu là, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản - nhân tố quyết định thành công của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. T''rong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản",
Về bối cảnh, động lực, lực lượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa:
* Bối cảnh là thời kỳ quá độ với đặc điểm “đan xen”, phức tạp, khó khăn, lâu dài…
* Động lực: lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, lợi ích cá nhân hài hòa lợi ích tập thể; khoa học và kỹ thuật…
* Lực lượng: giai cấp công nhân và các giai tầng lao động
* Biện pháp kinh tế: “Cùng với việc xã hội chiếm giữ các phương tiện xã hội, nền sản xuất hàng hóa bị loại bỏ, và do đó, cả sự thống trị của sản phẩm đối với người sản xuất.” (Ph.Angghen)
*
==
▲[[Tập tin:Red rose 02.svg|200px|nhỏ|phải|Hoa hồng đỏ, biểu trưng của phong trào dân chủ xã hội]]
▲Mục tiêu của tất cả các phong trào theo chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội công bằng hơn [[chủ nghĩa tư bản]], nhưng họ thường bất đồng trong các quan điểm về chủ nghĩa xã hội, cách thức cải tạo chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, mô hình [[nhà nước]], vai trò nhà nước trong nền kinh tế, mô hình quản lý sản xuất. Khác với những người theo chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ hay vô chính phủ, [[chủ nghĩa xã hội tự do cá nhân]], hầu hết các trường phái chủ nghĩa xã hội đều đề cao vai trò của nhà nước. Hai trường phái chủ nghĩa xã hội cơ bản là trường phái [[chủ nghĩa xã hội dân chủ]] và chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu của những người cộng sản không chỉ đề cao vai trò của nhà nước, sở hữu nhà nước mà tiến tới một xã hội cộng sản. Theo lý luận của những người cộng sản, nhất thiết cần tiến hành [[cách mạng vô sản]] để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tuy nhiên không phải là nhất thiết trong mọi hoàn cảnh. Thực tế là những người cộng sản cũng tham gia đấu tranh nghị trường nếu tự do tư tưởng và tự do chính trị được bảo đảm.
▲Chấp thuận kinh tế thị trường hoặc kinh tế phi thị trường cũng là một tranh cãi trong nội bộ những người xã hội chủ nghĩa. Một số trường phái cho rằng cần xóa bỏ kinh tế thị trường, vì nó dẫn đến bất bình đẳng xã hội và khủng hoảng kinh tế. Các trường phái ủng hộ kinh tế thị trường cho rằng chỉ cần có bàn tay nhà nước hoặc thể chể khác để điều chỉnh thị trường theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên có một số đặc điểm chung phổ quát trên lý thuyết: ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế và đời sống xã hội, công bằng xã hội (dù lý giải khác nhau), dân chủ cho đa số, đề cao sự hòa hợp xã hội, chống chủ nghĩa dân tộc ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân ích kỷ. Sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản đặc biệt là sự đa dạng hóa trong [[sở hữu]] và quản lý gây khó khăn và làm phân hóa thêm những người theo chủ nghĩa xã hội.
== Các nước xã hội chủ nghĩa ==
[[File:RIAN archive 848095 Signing the Agreement to eliminate the USSR and establish the Commonwealth of Independent States.jpg|nhỏ|270px|Các nhà lãnh đạo [[Nga Xô viết|Nga]], [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina|Ukraina]] và [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia|Bêlarut]] ký [[Hiệp định Belavezha]], chính thức giải thể Liên bang Xô viết năm 1991]]
Các nước xã hội chủ nghĩa là một khái niệm gây tranh cãi. Một số quốc gia hiến pháp tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội, hiện nay gồm có [[Trung Quốc]], [[Việt Nam]], [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|Bắc Triều Tiên]], [[Cuba]] và [[Lào]] có các đảng cộng sản cầm quyền và một số nước khác không do đảng cộng sản cầm quyền nhưng hiến pháp
Sự tranh cãi các nước xã hội chủ nghĩa về thực chất xuất phát từ cách hiểu khác nhau về khái niệm chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế của các nước đó. Tất cả các nước được xem là xã hội chủ nghĩa có thể chế chính trị khác nhau, kinh tế khác nhau và có khi bất đồng về cách hiểu xã hội chủ nghĩa cũng như mục tiêu không hoàn toàn giống nhau. Với một số nước, không phải đảng cầm quyền nào cũng là đảng xã hội chủ nghĩa. Đối với những người theo các hệ tư tưởng khác nhau cũng có sự lý giải khác nhau về xã hội chủ nghĩa. Ngược lại những nước được người cộng sản xem là các nước tư bản chủ nghĩa thì hiến pháp của họ lại không có khái niệm chủ nghĩa tư bản. Thực tế nền [[chủ nghĩa tư bản|kinh tế tư bản chủ nghĩa]] tại nhiều nước đã chuyển hóa sang những mô hình mới mang nhiều yếu tố của chủ nghĩa xã hội và thường không có một đường lối rõ ràng trong việc điều hành cũng như định hướng cho nền kinh tế. Nhìn chung các nước xã hội chủ nghĩa thường được hiểu là những nước ghi nhận trong hiến pháp mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội tuy nhiên cách thức và quy mô khác nhau. Một số quan điểm chủ nghĩa xã hội khác cho rằng chủ nghĩa xã hội có thể thông qua các chính sách nhà nước nhằm tạo một xã hội công bằng hơn song khái niệm này được nhiều người xem khá là mơ hồ, và bản thân những người không theo chủ nghĩa xã hội cũng có thể đưa ra một khái niệm công bằng mơ hồ, mang tính chủ quan, mà thường được xem xét trên khía cạnh công bằng tài sản hay công bằng lợi ích từ lao động. Ngay tại nhiều nước tự xem mình là chủ nghĩa xã hội thì sự công bằng xã hội hay hệ thống an sinh xã hội vẫn chưa phát triển đến mức có thể so sánh được với các nước phát triển có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thậm chí tại một số nước tự nhận theo khuynh hướng này đói nghèo phổ biến và xuất hiện khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Hàng 102 ⟶ 96:
===Mỹ Latin===
[[Tập tin:Venezuelan eating from garbage.jpg|nhỏ|Một người Venezuela đang thưởng thức ngon lành đồ ăn kiếm được từ một bãi rác]]
Một mô hình khác phát triển tại Mỹ Latin. Các lãnh đạo xã hội chủ nghĩa tuyên bố chống "chủ nghĩa đế quốc kinh tế", toàn cầu hóa quyết liệt. Đây là một xu hướng ngược với Trung quốc, nơi khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư, và tham gia toàn cầu hóa cạnh tranh kinh tế. Quá trình quốc hữu hóa ở các nước Mỹ latin tuyên bố xã hội chủ nghĩa (không chịu ảnh hưởng [[chủ nghĩa Marx]]) theo các phương thức gây tranh cãi, nhất là liên hệ với [[chủ nghĩa xã hội dân chủ]] và được sự ủng hộ khá lớn dân chúng. Các nước này có thành phần kinh tế tư nhân chiếm một vai trò đáng kể, và tương lai các nước này không thật sự rõ ràng, do duy trì dân chủ đại nghị, [[bầu cử tự do]] theo nhiệm kỳ, sức ép đối lập và tăng trưởng kinh tế thất thường thậm chí rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội như [[cuộc khủng hoảng tại Venezuela]]. Theo một số nhà lý luận thì phong trào cánh tả ở Mỹ Latin mang màu sắc [[chủ nghĩa dân tộc]] nhiều hơn. Ở một số nước, bất bình đẳng xã hội giảm đáng kể nhưng hiệu quả kinh tế thì không rõ ràng do đó mang lại tình trạng đói nghèo phổ biến và sự di chuyển của dòng vốn và chất xám ra khỏi đất nước như là phản ứng của người dân và doanh nghiệp trước những chính sách kinh tế xã hội được mệnh danh là chủ nghĩa xã hội. Đến cuối năm 2020 [[Nicolás Maduro]] vẫn giữ quyền lực ở Venezuela dù nước này trải qua nhiều khủng hoảng kinh tế chính trị, trong khi [[Evo Morales]] tại Bolivia bị lật đổ năm 2019 nhưng đồng minh ông ta là [[Luis Arce]] của [[Phong trào tiến lên Chủ nghĩa Xã hội]] (MAS) đã giành chiến thắng với 55,1% số phiếu bầu trong cuộc tổng tuyển cử ngày 18 tháng 10 năm 2020 trong bầu cử tự do ở nước này<ref>[https://baoquocte.vn/bau-cu-bolivia-ung-vien-dang-mas-gianh-chien-thang-chinh-thuc-cuu-tong-thong-morales-toi-venezuela-127107.html Bầu cử Bolivia: Ứng viên đảng MAS giành chiến thắng chính thức, cựu Tổng thống Morales tới Venezuela]</ref>. Tuy nhiên ý định thành lập Quốc tế 5 của [[Hugo Chavez]] không thành công do bất đồng trong phong trào cánh tả khu vực và một số nước cánh hữu có ưu thế.<ref>[https://www.sggp.org.vn/bai-1-loi-keu-goi-cua-tong-thong-venezuela-quoc-te-5-doan-ket-nguoi-lao-dong-vi-mot-xa-hoi-xhcn-223367.html Bài 1: Lời kêu gọi của Tổng thống Venezuela: Quốc tế 5 - Đoàn kết người lao động vì một xã hội XHCN]</ref>
Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào khủng hoảng, Cuba còn các nguồn viện trợ. Mặt khác, trong hàng chục năm Mỹ và các thế lực thù địch luôn tìm cách chống đối, bao vây, cấm vận, song Cộng hoà Cuba vẫn giữ vững thành quả cách mạng và phát triển đất nước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện, bối cảnh mới, để phù hợp hơn với tình hình, Đảng Cộng sản Cuba đã có nhiều nhận thức mới về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cuba cần xây dựng.
▲==== Cuba ====
Đại hội VI năm 2011, Đảng Cộng sản Cuba đã thông qua đường lối ''cập nhật hóa'' ''mô hình kinh tế - xã hội'' của đất nước. Đại hội VII (4/2016), Đảng Cộng sản Cuba đã đánh giá những thành tựu đạt được trong 5 năm thực hiện đường lối cập nhật hóa mô hình kinh tế - xã hội, trong đó đáng chú ý là 3 văn kiện mang tính cương lĩnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba, đó là:
Hàng 119 ⟶ 109:
* ''Về mục tiêu, tầm nhìn quốc gia'', Đảng Cộng sản Cuba khẳng định mục tiêu xây dựng đất nước là có chủ quyền, độc lập, chủ nghĩa xã hội, dân chủ, phồn vinh và bền vững.
*''Về chính trị
*''Về kinh tế
*''Về văn hóa, xã hội, t''
*''Về đối ngoại'', thực hiện đối ngoại mềm dẻo, đa phương; giương cao ngọn cờ chủ nghĩa quốc tế (giáo dục, y tế, quân sự…[[CUBA.docx|)]].
*''Về quyền con người,'' Đảng cộng sản Cuba khẳng định phẩm giá, sự bình đẳng và tự do của con người là trung tâm của mô hình kinh tế - xã hội. Mọi công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; được đảm bảo thực hiện hiệu quả các quyền đó. Trong đó, lao động đồng thời là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân và sẽ được trả lương tùy theo số lượng và chất lượng của lao động.
Một số thành tựu nổi bật:
* ''Giáo dục tại Cuba,'' được ưu tiên hàng đầu tại Cuba, kể từ năm 1959 (khi Cách mạng Cuba thành công), khiến nước này có hệ thống giáo dục thực sự hiệu quả, cùng đội ngũ giáo viên có chất lượng cao. Hệ thống trường học tại Cuba có tiêu chuẩn cao, chất lượng học thuật xuất sắc, các giáo viên được trả lương cao, đảm bảo cuộc sống đầy đủ. Các trường có mức độ tự chủ chuyên nghiệp khiến nước này trở thành một trong những nước có hệ thống giáo dục hiệu quả nhất thế giới, sánh ngang với Phần Lan, Singapore, Thượng Hải (Trung Quốc), Hàn Quốc, Thụy Sỹ, Hà Lan và Canada ''(theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới tháng 3/2014)''. Đây cũng là quốc gia có tỷ lệ đầu tư ngân sách quốc gia vào giáo dục cao nhất thế giới, 13 % (theo Huffington Post).
* ''Chính sách xã hội, k'' ể từ khi Cách mạng Cuba năm 1959 thành công, nước này đã tạo ra một hệ thống xã hội đảm bảo người dân được tiếp cận phổ cập các dịch vụ giáo dục và y tế do nhà nước chi trả. Mô hình này giúp Cuba đạt được nhiều thành tựu trong việc phổ cập giáo dục, tiêu diệt nhiều loại bệnh, cung cấp nước sạch và hệ thống vệ sinh công cộng tới toàn dân.
*''Về y tế,'' Cuba liên tục có tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong thấp nhất khu vực, và người dân có tuổi thọ cao nhất khu vực châu Mỹ Latinh; được đánh giá là một trong những nước có chính sách xã hội tốt nhất trong số các nước đang phát triển, được nhiều cơ quan quốc tế ghi nhận như Tổ chức Y tế Thế giới, Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc và các cơ quan khác của Liên Hợp Quốc.
== Thư mục ==
|