Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành Cổ Loa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
(tóm lược sửa đổi đã bị xóa)
Thẻ: Lùi lại thủ công Đã bị lùi lại Thêm liên kết dưới Liên kết ngoài hoặc Tham khảo
Reverted good faith edits by 1.54.203.231 (talk): Được rồi, vậy chịu chưa?
Thẻ: Twinkle Lùi sửa
Dòng 1:
{{bài cùng tên|Cổ Loa (định hướng)}}
{{Location map | Vietnam
| width = 222px250
| float = right
| relief = yes
| label = Di tích LoaCổ thànhLoa
| position = right
| lat_deg = 21.114039| lat_min = 35| lat_sec= 34| lat_dir = N
| lon_deg = 105.870624
}}{{coord| 21.114039| 105.870624| type:landmark_region:VN| format= dms| display= title}}
'''Thành Cổ Loa''' là di tích lịch sử tại vùng đất xã [[Cổ Loa (xã)|Cổ Loa]], [[Đông Anh|huyện Đông Anh]], [[Hà Nội]].
'''Cổ Loa thành''' ([[Hán tự]]: 古螺城<ref>Theo ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]]''.</ref>) là di tích khảo cổ tại địa bàn xã [[Cổ Loa (xã)|Cổ Loa]], [[Đông Anh|huyện Đông Anh]], [[Hà Nội]]. Đây thường được coi là [[thủ đô|kinh đô]] nước [[Âu Lạc]] thời [[An Dương Vương]] [[thế kỷ III]] TCN và triều đại [[Ngô Quyền]] thế kỷ XX SCN. Tuy nhiên, vấn đề niên đại đã gây tranh luận trong học giới [[Việt Nam]] từ [[thập niên 1960]] tới nay, do sự phát triển của năng lực [[khảo cổ học]] và [[văn hiến học]].
==Lịch sử==
Theo ''[[Sưu thần ký]]'', năm thứ 27 đời [[Tần Huệ vương]], sai [[Trương Nghi]] xây thành ở [[Thành Đô]], nhiều lần bị sụp. Bỗng có con rùa lớn nổi trên sông [[Dương Tử]], bơi tới góc Đông Nam của tử thành phía Đông thì chết. Nghi đem việc ấy hỏi vu sư, sư nói : “''Xây thành giống hình rùa''”. Nghi liền làm theo, gọi là Quy Hóa thành. Trong đó, chữ "quy hóa" 亀化 khá gần tự dạng "cổ loa" 古螺 cả âm và lối ghi cổ.
 
'''Cổ Loa''' là [[thủ đô|kinh đô]] của nhà nước [[Âu Lạc]] dưới thời [[An Dương Vương]] vào khoảng [[thế kỷ thứ 3]] trước [[Công Nguyên|Công nguyên]] và của nhà nước phong kiến dưới thời [[Ngô Quyền]] thế kỷ 10.
Theo tiến sĩ [[Lê Chí Quế]], "cổ loa" là lối kí âm Hán của từ ''k'la'', tức ''kẻ La'' trong tiếng Việt [[trung đại]], địa danh vẫn tồn tại cho tới đầu thế kỷ XX trước khi phủ thủ hiến [[Bắc Bộ|Bắc Việt]] cải cách hành chính phía Bắc [[Hà Nội]] năm 1950 (đổi K'noi thành [[Cổ Nhuế]], K'lu thành [[Kim Lũ]], Tlem/Chèm thành [[Từ Liêm]]...). Đọc theo lối hiện đại là "con gà", tương ứng truyền thuyết Bạch Kê tinh quấy việc xây thành ; còn "thục phán" trong ngôn ngữ [[Người Tày|Tày]] là ''túkpăn'', hàm nghĩa "thủ lĩnh", tương tự trường hợp "chao, chau" (triệu) trong ngôn ngữ [[Người Thái|Thái]], "po t'ring" (bộ lĩnh, bồ chính) trong ngôn ngữ [[Champa]] hoặc "kurung, turun" (hùng, trưng) trong ngôn ngữ [[Minangkabau]] (chữ "minang/manang/mling" gần đây được học giới đồng nhất với tự dạng "văn lang, mê linh", góp phần củng cố giả thuyết [[người Minangkabau]] đã di cư từ [[Bắc Bộ]] tới [[Sumatra]] và đem nhiều di sản của ngữ hệ Việt cổ đã thất truyền tại chính [[Việt Nam]]). Khi khảo sát thực địa thập niên 1960, các nhà khoa học đã tìm thấy những trầm tích cổ hơn cả thời được coi là [[An Dương Vương]] dưới nền xóm Gà (nay thuộc huyện [[Đông Anh]], thành phố [[Hà Nội]]). Vậy "cổ loa" cũng có thể ước đoán là '''Bạch-kê thành''' (白雞城).
 
== Bối cảnh địa lý ==
Điểm trùng hợp ngẫu nhiên giữa cứ liệu ''[[Sưu thần ký]]'' và quan điểm của tiến sĩ họ Lê là, nền Quy Hóa thành nguyên sơ là địa danh Mã ấp (xóm Ngựa), cho nên thành có tên gọi khác là ''Mã-ấp thành'' (馬邑城)<ref>[http://blog.livedoor.jp/eastasian/archives/1432511.html 『捜神記』亀による築城]</ref>. Cũng khớp với các huyền tích kiến thành [[Hoa Lư|Tràng An]] thời [[Nhà Đinh|Đinh]] và [[Thăng Long]] thời [[Nhà Lý|Lý]]. Tương truyền, khi [[Lý Thái Tổ]] dựng kinh đô ở khoảng giữa [[hồ Tây]] và sông [[Tô Lịch]], thành cứ xây xong lại đổ, vua bèn tới đền [[Long Đỗ]] khấn, bỗng có con bạch mã từ nội điện chạy ra, vua cứ theo vết móng ngựa vào cho đóng móng xây thành, khiến thành vững chãi suốt cả ngàn năm.
Vào thời [[Âu Lạc]], Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của [[tam giác]] châu thổ [[sông Hồng]] và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn [[Sông Hoàng (Việt Nam)|sông Hoàng]]. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với [[sông Cầu]], con sông lớn nhất trong hệ thống [[sông Thái Bình]]. Như vậy, về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại [[đồng bằng sông Hồng|đồng bằng Bắc Bộ]] vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc bộ [[Việt Nam]]. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận [[sông Thương]] và [[sông Lục Nam]].
{{cquote|''Trước kia, người Tần cất thành ở ải Võ Châu nhằm phòng bị rợ Hồ. Nhưng thành cứ xây xong lại đổ khiến vô số kẻ chết. Bỗng đâu có con ngựa chạy qua chạy lại, phụ lão lấy làm lạ, bèn theo đó mà xây. Tự bấy thành không đổ nữa, bèn đặt tên Mã Ấp.''<br>昔秦人築城於武周塞以備胡,城將成而崩者數矣,有馬馳走周旋反复,父老異之,因依而築,城乃不崩,遂名馬邑。|||''[[:zh:元和郡县志|Nguyên Hòa quận huyện chí]]'' (元和郡縣志), 813 SCN}}
Mà theo tác giả [[Philippe Papin]] trong cuốn ''Histoire de Hanoï'' năm 2001, ngay từ đầu [[Công nguyên]], toàn bộ [[đồng bằng sông Hồng]] - gồm [[Hà Nội]] hiện đại - còn nằm dưới mực nước biển, nên ngoại trừ gò Cây Táo (tương ứng thôn [[Triều Khúc]] ngày nay) khả dĩ trên mép nước một chút, thì không lý gì [[người Việt]] lại dựng nhà cửa ở vùng nước trũng ; cho nên sự tồn tại một kinh thành ở khu vực [[Hà Nội]] là điều hết sức phi lý. Ông cũng nhấn mạnh, trừ phi điều đó là sự "chữa" sử ký nhằm hợp thức hóa việc tuyên truyền [[chủ nghĩa dân tộc]] hiện đại. Dù vậy, một bộ phận người Việt hiện đại còn nặng tinh thần cực đoan bảo thủ thì không chấp nhận kiến giải theo lối mới, thậm chí sẵn sàng tẩy xóa sự thật nhằm hậu thuẫn cho niềm tin cũ, cố ý bỏ quên sự hiện diện của yếu tố [[Nhà Hán|Hán]] [[Nhà Đường|Đường]] trong lớp tàn tích. Còn theo tiến sĩ [[Lê Mạnh Thát]], thành Cổ Loa có sớm nhất từ thời [[Ngô Quyền]], trong khi truyền thuyết [[An Dương Vương]] xuất hiện khá trễ ở hậu kỳ [[trung đại]], một cách phản ánh ''[[Mahabharata]]'' theo nhãn quan người Việt. Tuy nhiên, tới nay chưa biết thuyết nào xác đáng hơn.
* Truyền thuyết [[Người Thái|Thái]] [[Vân Nam]]: [[Mông Bì La Các|Khoun Bourôm]] thống nhất [[Nam Chiếu|lục chiếu]], bèn chiếm [[Mường Then|Muang Thèn]] lập kinh đô. Thành hễ cất được ít lâu thì đàng xa có tiếng gà gáy, lại sập, khiến biết bao người chết. Nhà chúa phải cầu đảo bách thần, ma rừng ma nước... thế rồi có cụ già tới chỉ cách dựng thành trên cái gò hình con rùa, lại niệm chú. Tự bấy thành không đổ nữa / Nước [[Vương quốc Đại Lý|Đại Lý]] có lĩnh chúa họ Đoàn tự lập làm vua, bèn dấy quân đi đánh chúa quỷ [[A-tu-la|Atula]]. Quỷ vương bèn bắt vợ Đoàn lĩnh chúa về dinh của nó. Chúa phải mượn cây nỏ có lẫy bằng móng thần rùa vốn là linh vật họ Đoàn từ đời cố tổ. Nỏ phóng ra những mũi tên sắc lẹm, phá tan thành ấp quỷ, nhưng vô tình giết luôn thê thiếp tông tộc quỷ vương và cả vợ lĩnh chúa Đoàn. Sau khi diệt xong quỷ dữ, Đoàn lĩnh chúa cho dựng thành trên nền dinh ấy.
* Huyền tích [[Người Tày|Tày-Nùng]]: Chúa [[Nông Trí Cao]] xưng đế, dựa vào châu Thảng Do để cự [[nhà Lý]]. Bèn cất ở đấy một đô thành, gọi là Tà Dích (Đại Lịch), nhưng thành cứ xây xong lại sập. Nhà chúa bèn lập đàn khấn thần linh, thần bèn hóa con rùa vàng óng bò lại. Rùa bò tới đâu thì đất cứng đến đấy, chúa mừng quá bèn đóng cọc xây thành, không bao giờ đổ nữa. Nhân đó đổi tên thành là Tà Nám (Đại Nam). Thần rùa rút ở chân ra cái móng, bảo hễ lúc nào bị quan quân triều đình truy bắt thì đem ra dùng. [[Nông Trí Cao]] không tin, sau quả nhiên ứng nghiệm, khi lấy cái móng rùa ra thì đột nhiên có cơn gió đưa đi vạn dặm, tránh khỏi bị bắt.
* Huyền thoại [[Người Tráng|Tráng]]: [[Vua|Bua]] Mèng Mỗi dựng thành quách ở cái gò tựa như con rùa, nhưng thành hễ xây được ít hôm lại sạt lở. Bua bèn triệu thầy mo về cúng ma rừng. Thầy mo nói, nội dăm hôm nữa sẽ có thần gà trắng tới báo oán. Bua Mèng Mỗi bèn triệu các con trai lại, nhưng không ai dám đi đánh yêu quái. Bua phải lập đàn cầu đảo, xin dâng người thiếp đẹp nhất cho thần gà. Bỗng có trận gió ào tới cuốn phăng nhà cửa và người thiếp ấy đi. Tự bấy việc xây thành tiến triển, không đổ nữa.
* ''[[Tam quốc sử ký]]'': Ở [[Thiên đàng|thiên quốc]] bỗng đâu có sáu quả trứng rơi xuống Kê Lâm, trứng nở ra 6 vị vua chia nhau cai trị cõi Hàn. Trong 6 anh em, [[Thủ Lộ Vương]] ra trước, bèn bàn cách lập ấp kiến thành ở [[Gimhae|Kim Hải]]. Nhưng thành cứ dựng xong thì lúc sẩm tối lại đổ, vua bèn hỏi vu nữ, vu nữ bày rằng phải lập đàn khấn [[Đông Hải Long Vương]]. Long Vương nghe có kẻ xướng danh mình, bèn lội nước vào bờ dưới dạng con rùa mai vàng. Rùa cứ bò tới đâu thì [[Thủ Lộ Vương]] đóng móng cất thành đến đấy. Thành vì thế vững chãi, bọn hải khấu đánh mãi cũng không đổ.
* Huyền thoại [[Người Kalmyk|Kalmyk]]: Xưa kia, đại hãn [[Biệt Nhi Ca|Biệt Ca]] lập đô thành [[Sarai (thành phố)|Tát Lai]] ở tả ngạn [[Volga]] nhằm phô trương thanh thế. Nhưng hễ khi mặt trời lặn thì móng thành đứt tung như có quỷ gặm (dị bản cho là [[linh cẩu]]), hãn bèn sai người cháu là [[:ru:Ногай|Na Hải]] tìm hiểu. Khi đêm buông, [[:ru:Ногай|Na Hải]] trốn sau cái gò và thấy những bóng đen chạy tới chạy lại, húc vào chân thành làm bở gạch vữa, ngài bèn tri hô cho binh sĩ ruổi ngựa đuổi theo. Những bóng đen lộ nguyên hình dưới ánh lửa là những con gà có sải cánh rất dài, chạy thục mạng lên phương Bắc. Đại hãn bèn nhờ vu sư khấn thần rùa từ phương Đông tới giúp đánh yêu quái, từ đấy thành không đổ nữa. Nhờ công trạng ấy mà sau khi đại hãn mất, [[:ru:Ногай|Na Hải]] được kế nghiệp và lập một hãn quốc lừng lẫy ở ven [[Biển Caspi|hồ Kaspy]].
==Khảo chứng==
;;'''Địa dư'''
[[Hình:Le Tonkin, Exposition Universelle 1900.jpg|nhỏ|phải|222px|Bức ảnh chụp năm 1900 về cổ tích Loa thành.]]
Vào thời [[Âu Lạc]], Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của [[tam giác]] châu thổ [[sông Hồng]] và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một đồi cao ráo nằm ở tả ngạn [[Sông Hoàng (Việt Nam)|sông Hoàng]]. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với [[sông Cầu]], con sông lớn nhất trong hệ thống [[sông Thái Bình]]. Như vậy, về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại [[đồng bằng sông Hồng|đồng bằng Bắc Bộ]] vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc Bộ. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vùng Bắc hay Tây Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận [[sông Thương]] và [[sông Lục Nam]].
 
Địa điểm Cổ Loa chính là [[Phong Khê]], lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ [[Phong Châu]] về đây, đánh dấu một con đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng [[Trung du]] bán sơn địa về định cư tại vùng [[đồng bằng]]. Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường thủy ; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông đúc hơn. Trung tâm quyền lực của các cư dân Việt ở đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện sự phát triển về [[chiều rộng]] của [[văn hóa Đông Sơn]].
 
Trung tâm quyền lực của các cư dân Việt ở đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện sự phát triển về [[chiều rộng]] của [[Văn hóa Đông Sơn]].
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 [[km]], vòng giữa 6,58km, vòng trong 1,6km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong thoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 [[m]], có chỗ 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 [[cm]], hòn lớn có đường kính 60 cm. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dày đặc đã được tạo ra thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê - Hoàng Giang thông với [[sông Cầu]] ở [[Thổ Hà]], Quả Cảm (Hà Bắc) thông với [[sông Hồng]] ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Ngay sau khi xây thành, An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng thuyền chiến. Dân cũng được điều tới khai phá rừng đa ([[Gia Lâm]]), rừng Mơ ([[Mai Lâm]]), rừng dâu da ([[Du Lâm]])... thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn võ khí cũng xuất hiện, chế tạo [[côn (vũ khí)|côn]], [[kiếm]], [[giáo]], [[mác (vũ khí)|mác]] và [[nỏ liên châu]], mỗi phát bắn nhiều mũi tên. Có nhiều bằng chứng khảo cổ về sự tồn tại của hàng chục vạn mũi tên đồng; nỏ liên châu có thể được sử dụng tại đây.<ref>Viện sử học (1991), ''Lịch sử Việt Nam'', tập 1, Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tr. 133-134.</ref>
;;'''Cổ tích'''
[[Tập tin:Co loa Citadel.jpg|nhỏ|phải|222px|Sơ đồ thành Cổ Loa.]]
Thành Cổ Loa được một số người cho là "''tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ''".
 
Xây dựng thành
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng địa hình tự nhiên. Họ tận dụng [[chiều cao]] của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè. Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống lở. Các cuộc khai quật [[khảo cổ học]] đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 [[kilômét|km]], vòng giữa 6,58&nbsp;km, vòng trong 1,6&nbsp;km... Diện tích trung tâm lên tới 2&nbsp;km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong thoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 [[mét|m]], có chỗ 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 [[xentimét|cm]], hòn lớn có đường kính 60&nbsp;cm. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dày đặc đã được tạo ra thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê - Hoàng Giang thông với [[sông Cầu]] ở [[Thổ Hà]], Quả Cảm (Hà Bắc) thông với [[sông Hồng]] ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Ngay sau khi xây thành, Thục An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng thuyền chiến. Nhân dân cũng được điều tới khai phá rừng đa ([[Gia Lâm]]), rừng Mơ ([[Mai Lâm]]), rừng dâu da ([[Du Lâm]])... thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện, chế tạo [[côn (vũ khí)|côn]], [[kiếm]], [[giáo]], [[mác (vũ khí)|mác]] và [[nỏ liên châu]], mỗi phát bắn nhiều mũi tên. Có nhiều bằng chứng khảo cổ về sự tồn tại của hàng chục vạn mũi tên đồng, có thể dùng nỏ liên châu ở đây. Xem thêm [[Truyền thuyết Cổ Loa]].<ref>Viện sử học (1991), ''Lịch sử Việt Nam'', tập 1, Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tr. 133-134.</ref>
 
== Cấu trúc Thành Cổ Loa ==
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng thành theo hình trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời [[Ngô Quyền]]. Chu vi vòng ngoài 8&nbsp;km, vòng giữa 6,5&nbsp;km, vòng trong 1,6&nbsp;km, diện tích trung tâm lên tới 2km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong thoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4–5 m, có chỗ cao đến 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
[[Tập tin:Co loa Citadel.jpg|nhỏ|phải|250px|Sơ đồ thành Cổ Loa.]]
* '''Thành nội''' hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6–12 m, chân rộng từ 20–30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ".
* '''Thành trung''' là một vòng thành không khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có bốn cửa ở các hướng đông, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng.
* '''Thành ngoại''' cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3–4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường không hình dạng nhất định, khiến thành như một [[mê cung]], là một quân doanh vừa thuận lợi cho tấn công vừa ích cho phòng thủ.
[[Tập tin:thanh co loa2.jpg|nhỏ|trái|222px|Một đoạn tường thành mùa lễ hội.]]
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe, và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội. Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền thuyết, [[An Dương Vương]] thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hồng.
 
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng [[chiều cao]] của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong phú thêm tổng thể [[kiến trúc]] này. Đó là những gò đất dài hoặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành Ngoại. Không biết được có bao nhiêu ụ, lũy như thế, nhưng một số được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn... Các lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu. Đây cũng là một điểm đặc biệt của thành Cổ Loa. Cổ Loa cũng được biết đến là một trong những đô thị đầu tiên trong lịch sử An Nam.
* ''Về mặt quân sự'', thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
* ''Về mặt xã hội'', với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xã hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời [[Hùng Vương]].
* ''Về mặt văn hóa'', là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều này làm chứng cho nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Trên địa phận thành, các nhà khảo cổ đã từng khai quật được nhiều mộ cổ, hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh, khuôn đúc mũi tên, rìu lưỡi xéo bằng đồng, [[trống đồng]] và thậm chí cả ngói ống bằng gốm chịu ảnh hưởng từ [[kiến trúc]] [[Trung Hoa]] thời [[nhà Đường]].
<center><gallery>
Tập tin:Bronze ploughshares and axe heads - Cổ Loa Citadel.jpg|Lưỡi cày và rìu khoảng thế kỷ I TCN
Tập tin:Co Loa drums.JPG|Trống đồng thế kỷ I-II SCN
Tập tin:Ceramic xi ou.jpg|Ngói hoàng lưu ly thế kỷ X
</gallery></center>
==Văn hóa==
Địa danh Cổ Loa là nguồn gốc của nhiều lễ hội tâm linh thể hiện sự kính thờ tổ tiên của người Việt từ sơ kì hiện đại. Trong thời kì [[chiến tranh Việt Nam]], hình tượng [[An Dương Vương]] mượn nỏ thần chống ngoại xâm từng cổ vũ nhiều lớp thanh niên từ ghế giảng đường ra chiến trường. Nhưng sau chiến tranh, truyện [[Mị Châu]] vì tình riêng mà trở thành vật hiến sinh cho cuộc xâm lăng từ phương Bắc lại được nhà thơ [[Tố Hữu]] ngầm tái nhận thức về sự cần thiết phải [[Đổi Mới|đổi mới]] cơ chế chính trị xã hội đã quá lạc hậu.
 
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật [[khảo cổ học]] đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng [[âm lịch]], cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn [[An Dương Vương]]. Và hiện Cổ Loa là một trong 21 [[Khu du lịch Quốc gia]] của Việt Nam, và vào ngày 27/9/2012 Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.<ref>{{Chú thích web| url =http://m.vov.vn/van-hoa-giai-tri/di-tich-co-loa-don-nhan-bang-di-tich-quoc-gia-dac-biet-247502.vov | tiêu đề =Di tích Cổ Loa nhận Bằng di tích quốc gia đặc biệt | tác giả = | ngày =2013-02-14 | ngày truy cập =2018-01-05 | nơi xuất bản= Đài Tiếng nói Việt Nam | ngôn ngữ = }}</ref>
 
==Xem thêm==
'''Thành Cổ Loa''' theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời [[Ngô Quyền]]. Chu vi vòng ngoài 8&nbsp;km, vòng giữa 6,5&nbsp;km, vòng trong 1,6&nbsp;km, diện tích trung tâm lên tới 2&nbsp;km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong thoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4–5 m, có chỗ cao đến 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
{{commonscat|Cổ Loa Citadel}}
[[Tập tin:thanh co loa2.jpg|nhỏ|trái|250px|Một đoạn tường thành mùa lễ hội.]]
{{div col|4}}
'''Thành nội''' hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6–12 m, chân rộng từ 20–30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
* [[Văn Lang]]
 
'''Thành trung''' là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có bốn cửa ở các hướng đông, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng.
 
'''Thành ngoại''' cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3–4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
 
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một [[mê cung]], là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
 
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội.
 
Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền thuyết,Thục Phán [[An Dương Vương]] thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hồng.
 
== Giá trị của thành Cổ Loa ==
Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong phú thêm tổng thể [[kiến trúc]] này. Đó là những gò đất dài hoặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành Ngoại. Không biết được có bao nhiêu ụ, lũy như thế, nhưng một số được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn... Các lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu. Đây cũng là một điểm đặc biệt của thành Cổ Loa. Cổ Loa cũng được biết đến là một trong những đô thị đầu tiên trong lịch sử nước ta.
 
''Về mặt quân sự'', thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
 
''Về mặt xã hội'', với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xã hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời [[Hùng Vương|Vua Hùng]].
 
''Về mặt văn hóa'', là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều này làm chứng cho nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng [[âm lịch]], cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn [[An Dương Vương]].
 
Hiện nay Cổ Loa là một trong 21 [[Khu du lịch Quốc gia]] của Việt Nam, và vào ngày 27/9/2012 Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.<ref>{{Chú thích web| url =http://m.vov.vn/van-hoa-giai-tri/di-tich-co-loa-don-nhan-bang-di-tich-quoc-gia-dac-biet-247502.vov | tiêu đề =Di tích Cổ Loa đón nhận Bằng di tích quốc gia đặc biệt | tác giả = | ngày =2013-02-14 | ngày truy cập =2018-01-05 | nơi xuất bản= Đài Tiếng nói Việt Nam | ngôn ngữ = }}</ref>
 
== Di vật khảo cổ ==
Trên địa phận thành, các nhà khảo cổ đã từng khai quật được nhiều mộ cổ, hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh, khuôn đúc mũi tên, rìu lưỡi xéo bằng đồng, [[trống đồng]] và thậm chí cả ngói ống bằng gốm chịu ảnh hưởng từ [[kiến trúc Trung Hoa]].
<gallery widths="160px" heights="200px">
Tập tin:Bronze ploughshares and axe heads - Cổ Loa Citadel.jpg|Lưỡi cày đồng và lưỡi rìu đồng
Tập tin:Co Loa drums.JPG|Trống đồng Cổ Loa
Tập tin:Ceramic xi ou.jpg|Bề mặt ngói ống tại Cổ Loa
</gallery>
 
== Tham khảo ==
{{tham khảo|2}}
 
== Xem thêm ==
{{div col|2}}
* [https://www.google.com/maps/@21.1091342,105.8751489,15z Xem vị trí trên Google Maps]. ''Chú ý'': Do lỗi biên tập mà tên trên Google Maps có thể không chính xác.
* [[Nam Bình (kinh đô)]]
* [[Thành Bản Phủ (Cao Bằng)]]
* [[An Dương Vương]]
* [[Âu Lạc]]
* [[NamÂu CươngViệt]]
* [[XíchTây QuỷVu Vương]]
* [[Phiên Ngung (địa danh cổ)]]
* [[Việt Thường]]
* [[BáchNgô ViệtQuyền]]
* [[Nhà Ngô]]
* [[Nam Bình (kinh đô)|Nam Bình]]
* [[Thành Bản Phủ (Cao Bằng)|Bản Phủ]]
* [[Phiên Ngung (địa danh cổ)|Phiên Ngung]]
* [[Tĩnh Hải quân]]
{{div col end}}
 
==Tham khảo==
== Liên kết ngoài ==
{{tham khảo|4}}
{{thể loại Commons|Cổ Loa Citadel}}
===Nội ngữ===
 
* [http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2002/07/3B9BE054/ Thành Cổ Loa có mấy vòng?]
* [http://www.hau.edu.vn/Tinchuyennganh/KientrucVietNam/kientrucvietnam_001.htm Kiến trúc thành Cổ Loa]
Hàng 80 ⟶ 89:
* [http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2006/11/3B9F0DCB Phát hiện mới về mũi tên đồng ở thành Cổ Loa]
* [http://www.buildtimes.com/chuyen-de/kien-truc/585-co-loa-toa-thanh-co-co-mot-khong-hai.html Cổ Loa - Tòa thành cổ có một không hai]
 
===Ngoại ngữ===
* {{cite book| title=The Bronze Age of Southeast Asia |first=Charles |last=Higham |publisher=[[Cambridge University|Cambridge World Archaeology]] |year=1996 |isbn=0-521-56505-7}}
* {{Citation |publisher=Lonely Planet |title=Vietnam |last=Ray |first=Nick |author2-last=Balasingamchow |author2-first=Yu-Mei |display-authors=1 |date=2010 |isbn=9781742203898 |url=https://books.google.com/books?id=ZqOLmYD-0l4C&pg=PA123 |contribution=Co Loa Citadel |p=123 |ref={{harvid|Ray|2010}} }}.
* [https://web.archive.org/web/20080928075510/http://home.earthlink.net/~2551/id32.html Co Loa and the Story of the Headless Princess]
* Jean-François Hubert ''Le Vietnam des royaumes 1995'' Cercle d’Art
* Jean-François Hubert ''L’âme du Vietnam'' 1996 Cercle d’Art
* Jean-François Hubert ''La fleur du pêcher et l'oiseau d'azur, Arts du Vietnam'' - Catherine Noppe, Collectif - Jean-François Hubert Éditeur Renaissance du Livre (La)
* Jean-François Hubert ''Art du Vietnam et du sud-est asiatique
* [[Nguyễn Khắc Viện]] - ''Vietnam une longue histoire'' Ed: GIOI éd: 1987 - Dernière éd: 2012
{{Lịch sử Việt Nam thời An Dương Vương}}
{{Lịch sử Việt Nam thời Ngô}}
{{Di tích Việt Nam hạng đặc biệt}}
{{Du lịch Hà Nội}}
 
[[Thể loại:Lịch sử Việt Nam thời An Dương Vương]]
[[Thể loại:Cố đô Việt Nam]]