Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tam độc”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Truyền bá chân lý (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Kimkha Thẻ: Lùi tất cả |
n Sai kiến thức Phật Học Thẻ: Thêm nội dung không nguồn Soạn thảo trực quan |
||
Dòng 2:
{{Buddhism}}
'''Tam độc''' (tiếng [[Tiếng Phạn|Phạn]]: ''triviṣa
Vì bị kiềm chế bởi tam độc tham, sân, si nên chúng sinh luôn tạo nghiệp ác và do đó tạo ra trong tâm thức những nghiệp lực dưới dạng tiền định lực, trói buộc tâm thức. Khi mạng sống chấm dứt, chúng sinh bị kiềm chế bởi những tiền định lực ấy sẽ phải đi theo nghiệp lực của mình để tái sinh trong [[Sáu cõi luân hồi|6 cõi luân hồi]] với một tâm thức và thân thể của kiếp sống mới, phù hợp với các nghiệp nhân đã tạo tác ra trong quá khứ.
Dòng 9:
== Tham ==
Tham (Lobha), bắt nguồn từ "Lubh", bám chặt vào, hay cột lại, có thể được dịch là "luyến ái", hay "bám níu". Vài học giả thích dùng danh từ "khát vọng" hơn. ái dục cũng được dùng trong nghĩa tương đương với lobha. Khi giác quan tiếp xúc với một đối tượng đáng được ưa thích, tức trần cảnh khả ái, thông thường có sự luyến ái hay bám níu phát sanh. Ngược lại, nếu đối tượng không đáng được ưa thích thì có tâm bất toại nguyện.
== Sân ==
Sự bất toại nguyện ấy đuợc gọi là Sân (dosa) hay paṭigha. Sân (Dosa) xuất nguyên từ căn "dus", không bằng lòng, không vui, bất mãn, bất toại nguyện. Paṭigha do căn "paṭi", chống lại, và "gha", chạm vào, đụng, tiếp xúc, ác ý, thù hận, cũng được xem như có ý nghĩa tương đương với paṭigha.
== Si ==
Si (Moha) do căn "muh", lầm lạc, ảo tưởng. Ðó là trạng thái mê mờ, lầm lạc, ảo tưởng. Chính moha bao trùm đối tượng như một đám mây mờ và làm cho tâm mù quáng, không thấy rõ. Ðôi khi moha được phiên dịch là không biết, si mê.
== Các trạng thái tinh thần đối lập với tam độc: ==
* Buông bỏ
* Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ,xả)
* Trí tuệ
== Phép tu ==
*Ta phải thực hành phép "''Thiểu dục tri túc''" (Ít muốn biết đủ).
*Ta phải tập dừng lại, tập quan sát để có thể biết phân biệt đúng sai, phải trái.
*Ta phải biết thực hành
== Kết luận ==
Theo vi diệu pháp (Abhidhamma), moha (si) nằm trong tất cả các loại tâm bất thiện. Lobha (tham) và dosa (sân) không phát sanh một mình mà luôn luôn phối hợp với moha (si). Còn moha (si), thì có thể khởi sanh đơn độc một mình. Do đó danh
từ "momūha", si mê mạnh mẽ. Ðối nghịch hẳn với ba căn trên có ba căn thiện (Kusala). Ba căn nầy không những hàm xúc sự vắng mặt một số điều kiện bất thiện mà còn bao hàm sự hiện hữu của những điều kiện có tánh cách "thiện" một cách tích
cực. Alobha không phải chỉ có nghĩa là không luyến ái (không tham), mà cũng là quảng đại, bao dung, rộng rãi bố thí. Adosa cũng không phải chỉ là không sân hay không thù hận, mà còn là thiện ý, thiện chí, hay tâm từ(mettā). Amoha không phải
chỉ là không si mê mà cũng là trí tuệ hay tri kiến, minh mẫn sáng suốt (ñāṇa hay paññā).
== Tham khảo ==
{{tham khảo}}
* Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Nārada Mahā Thera)
*Phật giáo Việt Nam
*Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
|