Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mèo chân đen”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cập nhật thông tin và bảng phân loại khoa học.
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
nKhông có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Dòng 21:
| range_map_caption = Phạm vi phân bố mèo chân đen, 2016<ref name="iucn" />
|subordo=[[Feliformia]]}}
'''Mèo chân đen'''<ref>{{chú thích thông cáo báo chí|title=Thông tư số 40/2013/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Ban hành Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp|url=http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=detail&document_id=169765|ngày truy cập=ngày 7 tháng 1 năm 2017}}</ref> (''Felis nigripes''), còn được gọi là '''mèo đốm nhỏ''' là loài [[Họ Mèo|mèo hoang]] nhỏ nhất ở [[Châu Phi|châu Phi,]] có chiều dài đầu và thân 35–52 cm. MặcBất chấp tên của nó, chỉ có lòng bàn chân của nó là màu đen hoặc nâu sẫm. Với những đốm nhỏ và sọc đậm trên bộ lông màu hung, nó có khả năng ngụy trang tốt, đặc biệt là vào những đêm trăng sáng. Nó có những vệt đen chạy từ khóe mắt dọc theo má, và đuôi có dải của nó có chóp màu đen.
 
LoàiCon mèo chân đen đầu tiên mà khoa học biết đến được phát hiện ở phía bắc [[Karoo]] của [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]] và được mô tả vào năm 1824. Nó là [[Đặc hữu|loài đặc hữu]] của các [[Đồng cỏ|thảo nguyên]] khô cằn và các [[Trảng cỏ|savan]] đồng cỏ ở Nam Phi. Vào cuối những năm 1960, nó đã được ghi lạinhận ở miền nam [[Botswana]], nhưng chỉ có một số hồ sơ xác thực tồn tại ở [[Namibia]], ở miền nam [[Angola]] và ở miền nam [[Zimbabwe]]. Do sự phân bố hạn chế, nó đã được liệtđánh giá[[loài dễsắp bịnguy tổn thươngcấp]] trong [[sách đỏ IUCN]] từ năm 2002. Quần thể bị nghi ngờ đang giảm do việc săn bắt các loài săn mồi để làm thức ăn cho con người như thịt bụi, ngược đãi, tai nạn giao thông và các loàisự ăn thịt trong nước nhiều conbởi chó và mèo nhà.
 
Mèo chân đen đã được nghiên cứu bằng cách sử dụng máy đo từ xa vô tuyến từ năm 1993. Nghiên cứu này cho phép quan sát trực tiếp hành vi của nó trong môi trường sống tự nhiên. Nó thường nằm trong hang vào ban ngày và săn mồi vào ban đêm. Nó di chuyển trung bình từ 5 đến 16 km, tìm kiếm các loài [[Bộ Gặm nhấm|gặm nhấm]][[chim]] nhỏ, chủ yếu di chuyển theo các vòng tròn nhỏ và chạy ngoằn ngoèo giữa các bụi cây và gò mối. Nó ăn 40 loài [[động vật có xương sống]] khác nhau và giết 14 con vật nhỏ mỗi đêm. Nó có thể bắt những con chim đang bay, nhảy cao tới 1,4 m, và cũng dám tấn công các loài [[Lớp Thú|động vật có vú]] và chim nặng hơn nhiều so với nó. Một con cái thường sinh hai con mèo con trong mùa hè Nam bán cầu từ tháng 10 đến tháng 3. Chúng cai sữa khi hai tháng tuổi và tự lập muộn nhất sau bốn tháng tuổi.
 
==Đặc điểm==