Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Feri từ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 9:
 
M<sub>A</sub>, M<sub>B</sub> lần lượt là mômen từ của 2 phân mạng A và B, λ là tỉ phần giữa 2 phân mạng.
Nhìn chung, tính chất từ của feri từ gần giống với [[sắt từ]], tức là cũng có các đặc trưng như vật liệu sắt từ: [[từ trễ]], nhiệt độ trật tự từ ([[sắt từ|nhiệt độ Curie]]), [[từ độ|từ độ tự phát]]... Điểm khác biệt cơ bản nhất là do nó có 2 phân mạng ngược chiều nhau, nên thực chất trật tự từ của nó được cho bởi 2 phân mạng trái dấu, vì thế, có một nhiệt độ mà tại đó mômen từ tự phát của 2 phân mạng bị bù trừ nhau gọi là "nhiệt độ bù trừ". Nhiệt độ bù trừ thấp hơn nhiệt độ Curie (đôi khi nhiệt độ Curie của feri từ cũng được gọi là [[phản sắt từ|nhiệt độ Néel]], ở trên nhiệt độ Curie chất bị mất trật tự từ và trở thành [[thuận từ]]. [[Hình:Ferrite2.PNG|nhỏ|phải|300px|Sự bù trừ từ tính của 2 phân mạng và các điểm nhiệt độ đặc biệt:nhiệt độ Curie, nhiệt độ bù trừ]]
 
==Lịch sử sử dụng ferrite và ứng dụng==
* Trước khi có các lý thuyết về [[phản sắt từ]], người ta vẫn nhầm feri từ với [[sắt từ]]. Tính chất này lần đầu tiên được [[nhà vật lý]] học [[Pháp]] [[Louis Eugène Félix Néel]] ([[1904]]-[[2000]]) dự đoán vào năm [[1930]] và lần đầu tiên xuất hiện vật liệu vào năm [[1947]], sau đó nhanh chóng trở thành một trong những [[vật liệu từ]] được sử dụng nhiều nhất.