Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cáo Cape”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Bổ sung thêm thông tin và cập nhật bảng phân loại khoa học.
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
nKhông có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Dòng 22:
| range_map = Cape Fox area.png
| range_map_caption = Phạm vi phân bố cáo Cape
}}{{Refimprove|date=May 2020}}'''Cáo Cape''' (''Vulpes chama''), còn được gọi là '''cáo asse''', '''cáo cama''' hoặc '''cáo lưng bạc''', là một loài [[cáo]] nhỏ, có nguồn gốc từ miền nam [[châu Phi]].<ref name="msw32">{{MSW3 Wozencraft|id=14000868}}</ref> Nó còn được gọi là phiên bản Nam Phi của [[cáo Fennecfennec]] do cái đôi tai to của chúng. Nó là loài cáo thực sự duy nhất xuấtsinh hiệnsống[[Châu Phi Hạ Sahara|châu Phi cận Sahara]], và nó vẫn giữ các đặc điểm nguyên thủy của chi ''[[Chi Cáo|Vulpes]]'' vì nó đã tách ra sớm trong lịch sử tiến hóa của nhóm.<ref name="Red">{{Cite report|authors=Child, M.F., Roxburgh, L., Do Linh San, E., Raimondo, D. and Davies-Mostert, H.T.|year=2016|title=The red list of mammals of South Africa, Swaziland and Lesotho|publisher=South African National Biodiversity Institute and Endangered Wildlife Trust|location=South Africa}}</ref>
 
== Mô tả ==
''Vulpes chama'' là loài canid[[họ Chó]] có cấu tạo nhỏ, thường dài từ 45 đến 62 cm, không bao gồm đuôi, thường dài từ 30 đến 40 cm. Cao ngang vai từ 30 đến 35 cm, và thường nặng từ 2,5 đến 4,5 kg.<ref name="Lavoie">{{Cite journal|last1=Lavoie|first1=Maxime|last2=Renard|first2=Aurélie|last3=Pitt|first3=Justin A|last4=Larivière|first4=Serge|date=2019|title=Vulpes chama (Carnivora: Canidae)|journal=Mammalian Species|volume=51|issue=972|pages=11–17|doi=10.1093/mspecies/sez002|issn=0076-3519|s2cid=198261483}}</ref> Hộp sọ rất giống với V.hộp sọ của [[cáo Bengal]] (''Vulpes bengalensis''), mặc dù hộp sọ của V. chama hơi rộng hơn và vùng hàm trên ngắn hơn một chút.<ref name="Clutton-Brock">{{cite journal|last1=Clutton-Brock|first1=Juliet|last2=Corbet|first2=Gordon B|last3=Hills|first3=Michael|date=1976|title=A review of the family Canidae, with a classification by numerical methods|url=https://www.biodiversitylibrary.org/page/2307344#page/180/mode/1up|journal=Bulletin of the British Museum (Natural History).|volume=29|pages=117–199|doi=10.5962/bhl.part.6922}}</ref>
 
Đôi tai tương đối lớn và nhọn, mõm nhỏ và nhọn. VỏBộ lông màu xám bạc, hơi nâu ở sau tai, với những sợi lông trắng xuất hiện xung quanh một bên loa tai ở trung tâm.<ref name="Lavoie" /> Màu sắc của cổ và hai bên sáng hơn, và phần dưới có màu xám nhạt đến màu nhạt.<ref name="Sheldon">{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=a63SBAAAQBAJ&pg=PA168|title=Wild dogs: the natural history of the non-domestic Canidae|last1=Sheldon|first1=Jennifer W.|date=1992|publisher=Academic Press|isbn=9781483263694|location=San Diego|pages=168–171}}</ref> Đầu màu đỏ xỉn và hàm dưới màu nâu sẫm. Có vết trắng trên họng. Chân có nhiều lông hơn phần còn lại của cơ thể.<ref name="Clutton-Brock" /> Đuôi rậm rạpdày và rậm rạp, có thể có màu bạc, nâu vàng nhạt, đầu có màu nâu hoặc đen, hoặc vàng xỉn. ĐầuChóp đuôi luôn đen,<ref name="Lavoie" /> và có một đốm đen trên tuyến đuôi.<ref name="Sheldon" />
 
PelageBộ lông mềm và được cấu tạo bởi một lớp lông dưới lượn sóng dày có chiều dài khoảng 25 mm. UnderfurPhần lông dưới được bao phủ bởi một lớp lông bảo vệ dày đặc có độ dày <40 mm. MoltRụng xuấtlông hiệnxảy ra vào mùa mưa từ tháng 10 đến tháng 11.<ref name="Lavoie" /> ''V. chama'' biểu hiện ít hoặc không có lưỡng[[dị hình giới tính]].<ref>{{cite journal|last1=Kieser|first1=JA|last2=Groeneveld|first2=HT|date=June 1992|title=Comparative morphology of the mandibulodental complex in wild and domestic canids.|journal=Journal of Anatomy|volume=180 (Pt 3)|pages=419–24|pmc=1259643|pmid=1487435}}</ref>
 
== Phân bố và sinh cảnh ==
Cáo Cape là loài duy nhất trong chi ''Vulpes'' tồn tại ở châu Phi phía nam đường xích đạo. Nó chủ yếu chiếm giữ các khu vực khô cằn và bán khô hạn, nhưng ở các khu vực, chẳng hạn như quần xã sinh vật fynbosfynbo ở phía tây tỉnh Cape của Nam Phi, loài này đến các khu vực có lượng mưa cao hơn và thảm thực vật dày đặc hơn. Ở khu vực trung tâm và phía tây của miền nam châu Phi, loài này phổ biến rộng rãi, đạt khoảng 15 ° N ở tây nam [[Angola]].<ref>{{cite journal|author=Crawford-Cabral, J. C.|year=1989|title=Distributional data and notes on Angolan carnivores (Mammalia: Carnivora) I. Small and median-sizes species|location=Lisbon|volume=14|pages=3–27}}</ref> Nó phổ biến ở [[Zimbabwe]], [[Botswana]] [[Cộng hòa Nam Phi]], xảyphân rabố ở hầu hết các tỉnh thuộc Tây và Bắc Cape, Đông Cape (không bao gồm phía đông nam), Bang Tự do, Tây và Tây Bắc KwaZulu-Natal và tỉnh Tây Bắc . Nó cũng xảyphân rabố[[Lesotho]], một vùng núi cao.<ref>{{Cite web|url=http://www.krugerpark.co.za/africa_cape_fox.html|title=Cape Fox|website=krugerpark.co.za|publisher=Siyabona Africa|access-date=6 November 2020}}</ref>
 
== Hành vi ==
[[File:Vulpes_chama_01_MWNH_571.JPG|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Vulpes_chama_01_MWNH_571.JPG|trái|nhỏ|Hộp sọ của một con cáo Cape]]
Cáo Cape là loài ănsống về đêm và hoạt động mạnh nhất ngay trước bình minh hoặc sau hoàng hôn; nó có thể được phát hiện vào buổi sáng sớm và buổi tốichiều sớm. Vào ban ngày, nó thường trú ẩn trong các hang dưới lòng đất, lỗ, hốc hoặc bụi rậm. Nó là một máyloài đào đanghăng hoạt độnghái, sẽ đào hang của chính nó, mặc dù nó thường sửa đổi hang bị bỏ hoang của một loài khác, chẳng hạn như [[Springhare Đông Phi|springhare]], theo các yêu cầu cụ thể của nó.<ref name="Red" />
 
Cáo Cape chủ yếu [[Động vật sống đơn độc|sống đơn độc]] và mặc dù chúng tạo thành các cặp giao phối nhưng con đực và con cái thường kiếm ăn một mình.<ref name="Nel">{{cite journal|last1=Nel|first1=J.A.J|date=1 December 1984|title=Behavioural ecology of canids in the South-Western Kalahari|journal=Koedoe|volume=27|issue=2|pages=229–235|doi=10.4102/koedoe.v27i2.582|doi-access=free}}</ref> Tuy nhiên, thỉnh thoảng, chúng có thể tụ tập thành đàn rời rạc để kiếm ăn. Mặc dù ''V. chama''dấubiểu hiệuhiện vềhành vi chiếm lĩnh lãnh thổ, chẳng hạn như đánh dấu bằng mùi hương, nhưng sự trùng lặp về phạm vi nhà vẫn xảy ra.<ref name="Nel" /><ref name="Skinner">{{cite book|title=The mammals of the southern African subregion|author1=Skinner, J. D.|author2=Chimimba, Christian T.|year=2005|isbn=9781107340992|location=Cambridge}}</ref><ref name="Lavoie" />
 
Mặc dù là một con cáo thường im lặng, nhưng cáo Cape được biết đến là có khả năng giao tiếp bằng những tiếng kêu nhẹ, rên rỉ hoặc kêu ca. Tuy nhiên, nó sẽ phát ra tiếng sủa lớn khi được báosợ độnghải. Một âm thanh tầm xa của tiếng la hét hoặc tiếng sủa đã được mô tả, nhưng cáo Cape dường như không hú.<ref name="Sheldon" /> Khi ở trong tâm trạng hung hăng, cáo Cape được biết là gầm gừ và nhổ nước bọt vào kẻ tấn công. HọChúng có thể sử dụng các hình thức giao tiếp khác, chẳng hạn như nét mặt và tư thế đuôi;<ref name="Lavoie" /> để thể hiện sự phấn khích của mình, cáo vểnh đuôi lên, chiều cao của đuôi thường biểu thị thướcmức đođộ của sự phấn khích.
 
== Sinh thái học ==
 
=== Chế độ ăn ===
Cáo Cape là [[Động vật ăn tạp|loài ăn tạp]] hoàn toàn và là nhữngloài săn kẻmồi cơ hội, chủ yếu ăn [[Lớp Thú|động vật có vú]] nhỏ (chẳng hạn như loài [[Bộ Gặm nhấm|gặm nhấm]]) và [[côn trùng]], nhưng cũng thường ăn các loài [[chim]], [[Động vật bò sát|bò sát]] nhỏ, [[xác sốngchết]] và trái cây.<ref name="Klare">{{cite journal|last1=Klare|first1=Unn|last2=Kamler|first2=Jan F.|last3=Macdonald|first3=David W.|date=June 2014|title=Seasonal diet and numbers of prey consumed by Cape foxes Vulpes chama in South Africa|journal=Wildlife Biology|volume=20|issue=3|pages=190–195|doi=10.2981/wlb.00006|doi-access=free|s2cid=86020958}}</ref> Các mặt hàngloại thực phẩmăn khác bao gồm: [[chuột nhảy gerbil]]; [[chuột đồng]] và các loài gặm nhấm nhỏ khác, [[thỏ rừngđồng]], chim; chim yếntổ và trứng chim, nguyên liệu thực vật đa dạng, bao gồm quả dại, quả mọng, hạt, rễ và củ; thằn lằn, côn trùng, chẳng hạn như kiến trắng, bọ cánh cứng và ấu trùng của chúng, và cào cào.<ref name="Sheldon" /> Chúng cũng có thể tiêu thụ các động vật có vú lớn hơn như steenbok[[linh dương Steenbok]] (''Raphicerus campestris'') và các loài ăn thịt khác như [[cầy mangut màu vàng]] (''Cynictis penicillata'').<ref name="Lavoie" />
 
Trong khi cáo Cape đã được báo cáo là giết gia súc, mức độ săn mồi vẫn chưa được biết.<ref name="Skinner" /><ref name="Klare" /> [[Cừu nhà]] (''Ovis aries'') có thể chứa tới 16,6% thể tích trong dạ dày của nó, nhưng nó dường như chỉ săn mồi những con cừu non (dưới 3 tháng tuổi), nếu không chúng chỉ có thể ăn thịt cừu non.<ref>{{cite journal|last1=Kok|first1=O. B.|last2=Nel|first2=J. A. J.|date=24 November 2004|title=Convergence and divergence in prey of sympatric canids and felids: opportunism or phylogenetic constraint?: DIETS OF SYMPATRIC CANIDS AND FELIDS|journal=Biological Journal of the Linnean Society|volume=83|issue=4|pages=527–538|doi=10.1111/j.1095-8312.2004.00409.x}}</ref>Chúng được biết đến là nơi lưu trữ thức ăn trong các lỗ.<ref name="adw">{{Cite web|url=https://animaldiversity.org/accounts/Vulpes_chama/|title=''Vulpes chama''|author=Rohde, K.|date=2003|publisher=Animal Diversity Web|access-date=6 November 2020}}</ref>
 
=== Ký sinh trùng và động vật săn mồi ===
Cáo Cape có thể bị săn đuổi bởi [[sư tử]] (''Panthera leo'') và con non của nó có thể bị giết bởi [[lửng mật]] (''Mellivora capensis''). Đôi khi nó cũng bị săn mồi bởi [[chó rừng lưng đen]] (''Canis mesomelas'') và các động vật ăn thịt khác, chẳng hạn như [[báo hoa mai]] châu Phi (''Panthera pardus''), chim đại ca (Caracal caracal) và các loài chim săn mồi, chẳng hạn như diều hâu và cú.<ref name="Lavoie" />
 
Nó thường mang ''[[Echinococcus granulosus]]'' như một nội sinh vật và có thể bị [[bọ chét]] ký sinh.<ref name="Lavoie" />
 
== Sinh sản ==
[[File:Vulpes_chama01.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Vulpes_chama01.jpg|nhỏ|Cáo Cape ở Công viên Kgalagadi Transfrontier]]
Trong mùa sinh sản, ở Nam bán cầu mùa đông vào các tháng 7 và 8,<ref name="adw" /> các cặp [[một vợ một chồng]] có thể xảy ra, nhưng thời gian tồn tại và kéo dài từ năm này sang năm khác không được biết rõ.<ref name="Lavoie" /><ref name="Skinner" /> Những con trưởng thành được ghép đôi thường chỉ tiếp xúc trong mùa giao phối,<ref name="Lavoie" /> nhưng miệnghành khịtvi mũingửi miệng hoặc rúcđẩy đầunhẹ bằng mũi và miệng (“chào”“chào hỏi”) xảy ra, cũng như cơ thể đập vào nhau.<ref name="Nel" />
 
Cáo Cape cái có thời gian mang thai từ 51 đến 53 ngày và sinh ra một lứa từ một đến sáu con (hoặc bầycáo con). Chúng thường nặng từ 50 đến 100 g (1,8 đến 3,5 oz) khi mới sinh. Được nuôi dưới lòng đất trong hang, những con hổcáo con ở gần hang động cho đến khi chúng được khoảng bốn tháng tuổi. Một số con cái cũng có thể chia sẻ đồng thời cùng một ổ. Đàn con được cai sữa khoảng sáu đến tám tuần tuổi, nhưng không bắt đầu chokiếm ăn dặm cho đến khi chúng được bốn tháng tuổi và thường chơi ngoài trời vào ban ngày.<ref name="Nel" /> Cả bố và mẹ đều chăm sóc con non, con đực cũng cung cấp thức ăn cho con cái trong ít nhất 1-2 tuần sau khi sinh. Đàn con thường độc lập khi được 5–11,5 tháng tuổi, khi chúng phân tán (thường vào tháng 6 hoặc tháng 7). Con non có thể phân tán 7–22 km từ hang ổ đẻ và con cái có thể ở trong phạm vi sơ sinh của chúng.<ref name="Lavoie" /> Một số con cáo Cape còn trẻ ăn cắp thức ăn được bố mẹ mang đến bộcho dụngcác cụcon cáo con tại hang.<ref name="Nel" /><ref name="Sheldon" />
 
Một nhóm gia đình thường bao gồm bố mẹ và con cái của chúng, nhưng các nhóm gia đình khác nhau đôi khi trộn lẫn trong quá trình cho ăn. Có thể có nhiều lứa và đã được quan sát thấy; tuy nhiên, con cái thường đuổi conlứa cáisinh khỏi lứara cuối cùng đi khi nó đang mong đợi có thêm một conlứa khácmới. Cáo Cape được trưởng thành hoàn toàn trong vòng khoảng một năm, cả con cái và con đực đều đạt đến độ tuổi trưởngthành thànhthục sinh dục sau 9 tháng. Cáo Cape có tuổi thọ khoảng sáu năm, nhưng có thể sống đến 10 năm.<ref name="adw" />
 
== Bảo tồn ==
[[Mất môi trường sống]] dường như không phải là yếu tố chính ảnh hưởng đến tình trạng bảo tồn của Capecáo FoxCape; ở một số vùng, việc thay đổi tập quán nông nghiệp đã dẫn đến việc mở rộng phạm vi đối với loài này. Vì những con cáo này được cho là săn mồi gia súc, đặc biệt là cừu non, chúng thường là mục tiêu của nông dân. Chúng bị nhắm mục tiêu bởi các phương pháp kiểm soát khác nhau, chẳng hạn như bẫy giữ chân và việc sử dụng bất hợp pháp nhưng rộng rãi chất độc nông nghiệp trong các trang trại thương mại.<ref>{{cite web|url=https://www.nationalgeographic.org/media/photo-ark-cape-fox/|title=Photo Ark: Cape Fox|date=27 November 2018|website=National Geographic Society|language=en}}</ref> Các biện pháp kiểm soát này dường như không có tác động lớn đến quần thể của cáo Cape, mặc dù chúng đã dẫn đến sự suy giảm ở một số khu vực. Chúng cũng thường không chống chọi được với các bệnh như [[bệnh dại]] và bệnh chó distemper, và một số lượng lớn cáo Cape bị xe cộ giết chết trên đường. Nhiều con bị săn bắt và ngược đãi như một loài sâu bọ. Khoảng 2.500 cá thể bị giết hàng năm; chiếm khoảng 16% dân số.<ref name="adw" /> Tuy nhiên, các quần thể ''V. chama'' hiện đang ổn định trên toàn bộ phạm vi địa lý của chúng do đó nó không được liệt kê trong [[sách đỏ IUCN]].
 
==Chú thích==