Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vĩnh Thạnh, Bình Định”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
||
Dòng 43:
== Lịch sử ==
Vĩnh Thạnh vốn là những làng của người dân tộc Bana. Khoảng đầu [[thế kỷ XVIII]], người Kinh lên vùng đất này lập nghiệp dựng xóm ấp cho đến cuối năm [[1945]], những làng vùng này thuộc Tổng Vĩnh Thạnh của huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn) và Tổng Kim Sơn của huyện Hoài Ân.
[[Tháng 4]] năm [[1947]], tỉnh Bình Định lập 4 huyện miền núi: Vân Canh, Vĩnh Thạnh, Kim Sơn và An Lão. Tên huyện Vĩnh Thạnh bắt đầu từ đó.
Khoảng cuối năm [[1952]], theo chủ trương của Khu 5, huyện Vĩnh Thạnh nhập vào tỉnh Gia-Kon
Năm [[1961]], nhằm động viên nhân dân bước vào cuộc chiến đấu mới chống giặc Mỹ xâm lược và để giữ bí mật, lãnh đạo tỉnh đã lấy tên sông núi, tên người có công đặt tên cho xã (như núi Yang Điêng thay cho tên gọi xã Vĩnh Hiệp, suối LơPin là xã Vĩnh Trường, Bok Toih là xã Vĩnh Bình …) và các chữ cái kèm con số đặt tên cho một số làng từ đó mới có các tên mật danh: M6 (làng Lơ Ye), K11 (Kon Kriêng), N3 (Đe Klăng), O5 (Kon Trinh) …
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ([[1954
Năm [[1976]], hai huyện Vĩnh Thạnh và Bình Khê hợp thành huyện Tây Sơn.
Năm [[1982]], lập lại huyện Vĩnh Thạnh gồm 6 xã trong đó có 5 xã miền núi (Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim, Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hòa) và xã trung du Bình Quang.
Năm [[1986]], tỉnh điều chỉnh địa giới 3 xã Bình Quang, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo thành 4 xã: Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo, Vĩnh Thịnh, Vĩnh Quang.
Ngày [[7
Ngày [[14
Ngày [[15
Hiện nay, toàn huyện có 57 thôn, làng nằm trong 8 xã,
== Hành chính ==
|