Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kinh tế Việt Nam Cộng hòa”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Đã bị lùi lại |
n Đã lùi lại sửa đổi của Aristophana (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Alphama Thẻ: Lùi tất cả |
||
Dòng 3:
'''Kinh tế [[Việt Nam Cộng hòa]]''' (1955-1975) là một nền [[kinh tế]] theo hướng thị trường, [[các nước đang phát triển|đang phát triển]], và [[kinh tế mở|mở cửa]]. Mức độ tự do của nền [[kinh tế]] khá cao trong những năm 1963 đến 1973. Tuy nhiên, thời [[Đệ Nhất Cộng hòa (Việt Nam Cộng Hòa)|Đệ Nhất Cộng hòa]] [[phát triển kinh tế]] được triển khai dựa trên các [[kế hoạch kinh tế 5 năm]]. Nền kinh tế ổn định trong gần 6 năm đầu tiên, sau đó do tác động của [[chiến tranh]] leo thang trở nên mất ổn định với những đặc trưng như tốc độ [[tăng trưởng kinh tế]] không đều (có nhiều năm tăng trưởng bị âm), [[tỷ lệ lạm phát]] cao, thâm hụt [[ngân sách nhà nước]] và [[cán cân thương mại|thâm hụt thương mại]]. Chính quyền đã phải tiến hành [[cải cách ruộng đất]] tới hai lần.
Lãnh thổ miền Nam Việt Nam khi đó là chia làm 2 vùng: do Mỹ-Việt Nam Cộng hòa kiểm soát và do [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] kiểm soát, mỗi vùng có nền kinh tế riêng. Tuy nhiên, để việc tính toán trở nên đơn giản thì trong nhiều tài liệu kinh tế học cũng như trong bài viết này, tất cả hoạt động kinh tế ở phía Nam vĩ tuyến 17 giai đoạn 1955-1975 sẽ được gọi là "kinh tế Việt Nam Cộng hòa".
Dòng 204:
Trong vòng 20 năm, xét theo giá trị sản lượng tuyệt đối, công nghiệp tăng khoảng 2,5 đến 3 lần, nhưng xét theo tỷ trọng trong [[Tổng sản phẩm nội địa|GDP]] thì hầu như không tăng, chỉ từ 8 - 10% GDP. Vào giữa thập kỷ 1950, giá trị sản lượng công nghiệp theo đầu người của Việt Nam Cộng hòa không kém lắm so với các nước trong khu vực, xấp xỉ bằng Thái Lan. Nhưng từ thập kỷ 1960 trở đi, khoảng cách ngày càng xa, và Việt Nam Cộng hòa đã rơi xuống vị trí thấp nhất trong khu vực. Cho đến giữa thập kỷ 1960, Việt Nam Cộng hòa cũng đứng ở vị trí thấp nhất khu vực về tỉ lệ dân số làm việc trong lĩnh vực công nghiệp<ref name="moit">[http://www.moit.gov.vn/vn/pages/lichsuphattrien.aspx?IDNews=540 Giai đoạn 1975 - 1985], Xây dựng và phát triển Công nghiệp - Thương mại sau ngày Giải phóng miền Nam, Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương (MOIT)</ref>.
[[Nông nghiệp|Nông]]-[[lâm nghiệp|lâm]]-[[ngư nghiệp|ngư]] luôn chiếm tỷ trọng khoảng 30% GDP. Còn tỷ trọng của [[dịch vụ|khu vực dịch vụ]] đã tăng nhanh chóng từ 45% lên 60%.
{|class="wikitable sortable" style="font-size:100%"
|+Cơ cấu kinh tế VNCH giai đoạn 1960-1973 (%)<ref>Trần Văn Thọ chủ biên (2000), Kinh tế Việt Nam 1955 - 2000: Tính toán mới, phân tích mới, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, tháng 12, Bảng 7.6, trang 288 dẫn từ Viện thống kê quốc gia, niên giám VNCH từ 1974 trở về trước.</ref>
Dòng 387:
===Dịch vụ===
== Xuất nhập khẩu ==
Hàng 430 ⟶ 429:
Ngân sách của chính quyền Việt Nam Cộng hòa luôn ở trong tình trạng thâm hụt mà nguyên nhân chính là các khoản chi cho quân sự luôn lớn hơn cho chi dân sự và càng ngày càng tăng. Mức thâm hụt đã tăng từ mức trên 50% một chút trong nửa cuối [[thập niên 1950]] lên gần 70% đầu [[thập niên 1960]] và đến 78,9% vào năm 1968.<ref>Mức thâm hụt tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa chênh lệch thu và chi ngân sách với chi ngân sách trong cùng thời điểm.</ref> Để bù đắp thâm hụt ngân sách, chính quyền đã nỗ lực cải cách hệ thống [[thuế]] nhằm tăng nguồn thu, bán [[dự trữ ngoại hối nhà nước|dự trữ ngoại tệ]] (và kim loại quý) đồng thời [[phá giá]] nội tệ nhằm tăng thu từ [[thuế nhập khẩu]] và tăng mức thu tính bằng nội tệ từ bán ngoại tệ. Tuy nhiên, các biện pháp khẩn cấp để bù đắp thâm hụt ngân sách đã được áp dụng là vay của Ngân hàng Quốc gia, vay của các [[ngân hàng thương mại]] và bán [[trái phiếu chính phủ|công trái]].
===Thu ngân sách===
|