Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành viên:Linh Comer/Nháp/24”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Cameron Bruce Crowe''' (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1957) là một đạo diễn, nhà sản xuất, nhà biên kịch, nhà báo, tác giả và nam diễn viên người Mỹ. Trước khi gia nhập ngành công nghiệp điện ảnh, Crowe từng là một cây bút cộng tác cho tạp chí ''[[Rolling Stone]]'' và ông vẫn thường xuyên viết bài cho tạp chí này. Tác phẩm đầu tay mà Crowe chắp bút kịch bản, ''Fast Times at Ridgemont High'' được xây dựng từ một cuốn sách do chính ông viết trong thời gian 1 năm ông bí mật làm học sinh tại Trường Trung học Clairemont ở San Diego, California. Sau đó, ông viết kịch bản kiêm đạo diễn thêm một tác phẩm nữa về đề tài học đường là ''Say Anything...'' (1989), rồi kế tiếp là ''Singles'' (1992) – câu chuyện về 20 người thanh niên ngoài 20 tuổi tập hợp với nhau để làm một bản [[soundtrack]], xoáy sâu vào làn sóng nhạc [[grunge]] đang thịnh hành ở [[Seattle]] lúc bấy giờ. Năm 1996, Crowe giành được thành công lớn với bộ phim ''[[Jerry Maguire]]'' (1996). Ngay sau đó, ông được bật đèn xanh để thực hiện tác phẩm tự truyện ''[[Almost Famous]]'' (2000) – dự án mà ông ấp ủ từ lâu. Bộ phim xoay quanh một cậu nhà báo trẻ tuổi [[thiếu niên]] đi lưu diễn với một ban nhạc đang trên đà nổi tiếng, thể hiện góc nhìn sâu sắc về cuộc đời của cây viết trẻ mới 15 tuổi của ''Rolling Stone''. Với kịch bản bộ phim, Crowe đã thắng một [[giải Oscar]] cho [[giải Oscar cho kịch bản gốc xuất sắc nhất|kịch bản gốc xuất sắc nhất]]. Cuối năm 1999, Crowe cho xuất bản cuốn sách thứ hai lấy nhan đề ''Conversations with Wilder'', với nội dung là một phiên hỏi đáp với đạo diễn [[Billy Wilder]].
'''Richard Stuart Linklater''' là một đạo diễn, biên kịch và nhà sản xuất điện ảnh người Mỹ. Ông nổi tiếng với những bộ phim chủ yếu xoay quanh văn hóa ngoại ô và những hiệu ứng khi [[thời gian|thời gian trôi đi]]. Những tác phẩm nổi bật của Linklater gồm có ''Slacker'' (1990) và ''Dazed and Confused'' (1993); bộ ba tác phẩm lãng mạn Before – ''[[Trước lúc bình minh|Before Sunrise]]'' (1995), ''[[Before Sunset]]'' (2004) và ''[[Before Midnight]]'' (2013); phim lấy đề tài hài–ca nhạc ''[[Rock học trò|School of Rock]]'' (2003); hai bộ phim hoạt hình ''Waking Life'' (2001) và ''A Scanner Darkly'' (2006); tác phẩm chính kịch đề tài tuổi mới lớn ''[[Thời thơ ấu (phim)|Boyhood]]'' (2014); và phim hài ''[[Sinh viên siêu quậy!! (phim)|Everybody Wants Some!!]]'' (2016).
 
Năm 2015, Linklater có mặt trong ''[[Time 100]]'' – danh sách thường niên công bố 100 nhân vật giàu ảnh hưởng nhất thế giới. Ông được biết đến với phương pháp và lối làm phim mang màu sắc riêng biệt. Nhiều bộ phim của ông gây được chú ý bởi lối kể chuyện không bị gò bò vào khuôn khổ; ngoài ra bộ ba phim ''Before'' và ''Boyhood'' đều có cùng một dàn diễn viên được ghi hình trong suốt nhiều năm trời.
 
==Xuất thân==
Linklater chào đời tại [[Houston|Houston, Texas]]; ông là con trai của bà Diane Margaret (nhũ danh Krieger) – giáo viên tại trường đại học bang Sam Houston và ông Charles W. Linklater đệ III. Ông theo học trường trung học Huntsville tại [[Huntsville|Huntsville, Texas]] vào năm ông học lớp 9–11; tại đây ông chơi [[bóng đá]] cho Joe Clements ở vị trí tiền vệ dự bị cho đội bóng đang xếp hạng 1 toàn bang. Ở năm học cuối cấp, ông chuyển đến trường trung học Bellaire tại Bellaire, Texas vì ông chơi [[bóng chày]] tốt hơn bóng đá và Bellaire có một huấn luyện viên bóng chày giỏi hơn. Ở tuổi thiếu niên, Linklater đã thắng giải Nghệ thuật và Viết lách Học thuật.
 
Linklater đã theo học tại Đại học bang Sam Houston (ở đây ông vẫn chơi môn bóng chày), kế đó bỏ học để đi làm công nhân tại một [[giàn khoan dầu]] nằm ở [[vịnh México]]. Ông thường xuyên đọc tiểu thuyết trên giàn khoan và lúc trở về đất liền, ông nảy sinh tình yêu với điện ảnh qua nhiều lần ghé thăm một nhà hát kịch nghệ tại Houston. Lúc bấy giờ, Linklater nhận ra mình muốn trở thành một nhà làm phim. Ông dùng tiền tiết kiệm để mua một chiếc máy ảnh [[phim Super 8|Super 8]], một cái máy chiếu và thiết bị biên tập video, rồi chuyển đến Austin, Texas. Ông đã trúng tuyển vào trường cao đẳng cộng đồng Austin vào mùa thu năm 1984 để theo học ngành điện ảnh.
 
==Sự nghiệp==
===Khởi nghiệp viết lách ở ''Rolling Stone''===
===1985–2000: Những năm đầu đạo diễn===
Câu chuyện đầu tiên mà Crowe viết cho ''[[Rolling Stone]]'' nói về ban nhạc [[Allman Brothers Band]]. Năm 16 tuổi, ông từng đồng hành cùng họ trong 3 tuần, tiến hành phỏng vấn ban nhạc cũng như [[đoàn hộ tống đường dài]]. Vì Crowe vốn là người hâm mộ các ban nhạc [[hard rock]] ở thập niên 1970, nên ông được dự nhiều buổi phỏng vấn lớn. Ông chủ yếu viết về [[Yes (ban nhạc)|Yes]] và cả những tên tuổi như [[Led Zeppelin]], Allman Brothers, [[Jackson Browne]], [[Neil Young]], [[Eagles (ban nhạc)|Eagles]], [[Rod Stewart]], [[Eric Clapton]], [[Peter Frampton]], [[Linda Ronstadt]], [[Crosby, Stills, Nash and Young]], [[Fleetwood Mac]] cùng nhiều nghệ sĩ rock khác. Đồng nghiệp cũ Sarah Lazin miêu tả về thời trẻ của Crowe: "Anh ấy rất vui khi được làm việc cùng [tôi], một con người hoàn toàn chuyên nghiệp. Anh ấy dễ tình và ham học hỏi. Và dĩ nhiên là các ban nhạc cũng yêu quý anh ấy." Cây bút kì cựu [[Ben Fong-Torres]] cũng nói về Crowe: "Anh ấy là người mà chúng tôi cử đi theo một số khách hàng khó tính. Anh ấy còn bao che các ban nhạc ghét ''Rolling Stone'' nữa."
Linklater là người sáng lập nên [[Hội điện ảnh Austin]] cùng người đồng nghiệp lâu năm [[Lee Daniel]] vào năm 1985. Một trong những người cố vấn cho tổ chức trên là George Morris – cựu phê bình gia của tờ ''SoHo Weekly News'' từng sống tại thành phố New York; ông đã chuyển đến Austin và giảng dạy điện ảnh tại đây. Linklater đã làm nhiều bộ phim ngắn trong nhiều năm để thực hành và trải nghiệm các kĩ thuật điện ảnh. Cuối cùng, ông hoàn thành xong tác phẩm phim dài đầu tay mang tên ''It's Impossible to Learn to Plow by Reading Books'' – đây là tác phẩm ông ghi hình bằng máy Super 8, mất tới 1 năm trời để quay và mất thêm 1 năm nữa để biên tập. Bộ phim tạo nên dấu mốc quan trọng ở việc định hình hầu hết những mối bận tâm của Linklater. Trong phim ông sử dụng phong cách đặc trưng của mình là các chuyển động máy quay ở mức tối thiểu và ít kể chuyển, đồng thời nghiên cứu đề tài quay phim trên giá trượt mà không có hướng đi cụ thể nào trong đầu. Chính những nét đặc trưng riêng này sẽ được khai phá ở mức độ rộng hơn trong những dự án tương lai của Linklater. Năm 1995, ông giật [[giải Gấu bạc cho đạo diễn xuất sắc nhất]] nhờ chỉ đạo tác phẩm ''[[Trước lúc bình minh|Before Sunrise]]'' tại [[Liên hoan phim quốc tế Berlin]] lần thứ 45. Dự án điện ảnh kế tiếp của ông, ''SubUrbia'' gây những ý kiến trái chiều trong giới phê bình và cũng không thu được nhiều tiền bán vé. Năm 1998, ông nhận xử lời thực hiện bộ phim Hollywood đầu tiên của mình có tựa ''The Newton Boys''; phim gây nên những nhận xét trái chiều từ giới phê bình nhưng lại thành công ở thị trường bán vé.
 
===2001–2013: Được thừa nhận rộng hơn===
Với hai phim [[Rotoscoping|rotoscope]] ''Waking Life'' và ''A Scanner Darkly'', bên cạnh tác phẩm hài giải thích quần chúng như ''[[Rock học trò|School of Rock]]'' và bản làm lại của ''Bad News Bears'', Linklater dần được nhiều người ghi nhận hơn. Năm 2003, ông viết kịch bản và chỉ đạo với Rodney Rothman tập thí điểm cho [[HBO]] có tên ''$5.15/hr'', nói về những nhân viên nhà hàng đạt [[lương tối thiểu|mức lương tối thiểu]]. Năm 2004, phim ''[[Before Sunset]]'' của Linklater đem về cho ông một đề cử [[giải Oscar|Oscar]] ở hạng mục [[Giải Oscar cho kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất|Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất]]. Bộ phim ''Fast Food Nation'' (2006) là một bản chuyển thể từ cuốn sách bán chạy cùng tên, với nội dung tìm hiểu về ảnh hưởng của ngành công nghiệp đồ ăn nhanh lên toàn cầu và địa phương. Phim đã xuất sắc lọt vào vòng tranh cử [[Cành cọ Vàng]] tại [[Liên hoan phim Cannes 2006]], trước khi được phát hành chiếu rạp lần lượt tại Bắc Mỹ vào ngày 17 tháng 11 năm 2006 và tại châu Âu vào ngày 23 tháng 3 năm 2007. Năm 2013, ''Before Midnight'' – bộ phim cuối cùng trong chuỗi bộ ba tác phẩm ''Before...'' của Linklater đem về thêm cho ông một đề cử Oscar cho kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất.
 
===2014–nay: ''Boyhood'' và các dự án khác===
Năm 2014, Linklater cho phát hành bộ phim ''[[Thời thơ ấu (phim)|Boyhood]]'' sau 12 năm trời làm tác phẩm này. ''Boyhood'' nhận được đông đảo lời tán dương từ giới phê bình, qua đó giúp Linklater giành chiến thắng các danh hiệu như [[Giải Quả cầu vàng|Quả cầu vàng]], [[Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh|Giải điện ảnh của giới phê bình]] và [[Giải thưởng Điện ảnh Viện Hàn lâm Anh Quốc|Điện ảnh BAFTA]] ở hai hạng mục Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Ông còn nhận được đề cử [[Giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất|Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất]] lần đầu tiên, bên cạnh các đề cử là [[Giải Oscar cho kịch bản gốc xuất sắc nhất|Kịch bản gốc xuất sắc nhất]] và [[Giải Oscar cho phim hay nhất|Phim hay nhất]].
 
Trong một thời gian, Linklater từng được liên hệ để mời chỉ đạo bản làm lại của ''The Incredible Mr. Limpet'' dành cho Warner Brothers. Tuy nhiên ông bỏ dự án để chuyển sang làm một bộ phim tiếp nối ''Dazed and Confused'', lấy nhan đề là ''[[Sinh viên siêu quậy!! (phim)|Everybody Wants Some!!]]'', với sự hỗ trợ về mặt phân phối tại Bắc Mỹ đến từ [[Annapurna Pictures]] và [[Paramount Pictures|Paramount]]. Phim ra rạp vào tháng 3 năm 2016 và được giới phê bình đón nhận rất tích cực, nhưng phim lại không thể làm hòa vốn 10 triệu USD và kết quả chỉ thu về 4,6 triệu USD.
 
Ở nửa sau của thập niên 2010, Linklater đã viết kịch bản kiêm đạo diễn bộ phim ''Last Flag Flying với sự tham gia diễn xuất của [[Bryan Cranston]], [[Laurence Fishburne]] và [[Steve Carell]]. Tác phẩm được xem là phần kế tiếp của phim ''The Last Detail'' (1973) do [[Hal Ashby]] làm đạo diễn. Phim bắt đầu bấm máy vào tháng 11 năm 2016 và ra rạp vào ngày 3 tháng 11 năm 2017. Kế đó, Linklater đạo diễn phim ''Where'd You Go, Bernadette, b'' dựa trên cuốn tiểu thuyết của Maria Semple và sản xuất bởi Annapurna Pictures.
 
===1985–20001982–92: Những nămtác đầuphẩm đạođầu diễntiên===
Năm 2019, có nguồn tin cho hay Linklater sẽ ghi hình tác phẩm chuyển thể từ vở nhạc kịch ''Merrily We Roll Along'' của [[Stephen Sondheim]]. Phim được ghi hình trong nhiều năm liền giống ''Boyhood'', nhưng lại được dựng theo [[trật tự ngược]] giống nguyên tác nhạc kịch.
Năm 22 tuổi, Crowe nảy ra ý tưởng bí mật làm học sinh trung học và viết về những trải nghiệm của mình. [[Simon & Schuster]] đưa ra một bản hợp đồng cho ông và ông chuyển về sống cùng cha mẹ rồi nhập học Trường trung học Clairemon ở San Diego dưới cái tên Dave Cameron. Được sống lại năm cuối cấp mà bản thân chưa bao giờ có được, ông kết bạn và bắt đầu hòa nhập. Mặc dù lúc định đưa chính mình vào sách, ông nhận ra rằng như thế sẽ hủy hoại khả năng nắm được trải nghiệm thực sự thời trung học của mình. Sau đó, cuốn sách ''Fast Times at Ridgemont High: A True Story'' ra đời vào năm 1981.
 
Trước khi sách được phát hành, ''Fast Times at Ridgemont High'' đã được lựa chọn để dựng thành phim điện ảnh. Bộ phim được công chiếu vào năm 1982 và không có cốt truyện cụ thể cũng như không có cái tên đình đám nào tham gia dự án. Do đó hãng phim quyết định không tiếp thị cho bộ phim, và tác phẩm dần bị chìm và quên lãng. Mặc dù vậy, những đánh giá dành cho ''Fast Times at Ridgemont High'' khá tích cực và bộ phim trở thành nơi chấp cánh sự nghiệp của những diễn viên tên tuổi sau này, nhưng còn vô danh lúc bấy giờ, như [[Jennifer Jason Leigh]], [[Eric Stoltz]], Judge Reinhold, Phoebe Cates, Anthony Edwards, [[Nicolas Cage]], [[Forest Whitaker]] và [[Sean Penn]].
===Lối đạo diễn===
Nguồn cảm hứng cho những tác phẩm của Linklater chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của ông lúc thưởng thức bộ phim ''[[Raging Bull]]'':
{{pull quote|Tác phẩm [Raging Bull] làm tôi thấy việc coi phim giống như một cách để tôi có thể giải tỏa những gì mình đang nghĩ và hi vọng sẽ diễn đạt. Lúc bấy giờ tôi chưa phải là một nghệ sĩ đã được định hình. Ở khoảnh khắc đó, có thứ gì đó đang kìm nén trong tôi, nhưng ''Raging Bull'' đã làm tôi bùng cháy [cảm giác ấy].}}
Bên cạnh đó, ông còn chịu ảnh hưởng từ những nhà làm phim như [[Robert Bresson]], [[Ozu Yasujirō]], [[Rainer Werner Fassbinder]], [[Josef Von Sternberg]] và [[Carl Theodor Dreyer]]. Nhiều bộ phim của Linklater, chẳng hạn như ''Slacker'', ''Dazed and Confused'' và ''Before Sunrise'' lấy bổi cảnh chỉ diễn ra trong một ngày. Những bộ phim kể trên có ít tình tiết chèo lái, thay vào đó xoáy sâu hơn vào những tương tác giữa người với người và chúng thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. [[Ethan Hawke]] và [[Matthew McConaughey]] là những diễn viên thường góp mặt trong các bộ phim của Linklater. Ngoài ra còn có nhiều diễn viên khác đóng trong hai phim của ông trở lên như [[Jack Black]], [[Julie Delpy]], [[Ellar Coltrane]], [[Adam Goldberg]], [[Parker Posey]], [[Rory Cochrane]], [[Greg Kinnear]], [[Patricia Arquette]] và [[Laurence Fishburne]].