Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử sự sống”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Orimain (thảo luận | đóng góp)
Orimain (thảo luận | đóng góp)
Dòng 215:
Nghiên cứu về cách mà sự sống có khả năng đã nổi lên từ các chất hóa học vô sinh tập trung vào ba điểm bắt đầu có khả năng xảy ra: tự sao chép, theo đó sinh vật có khả năng sản sinh ra con cháu mà cực kỳ giống với chính nó; [[trao đổi chất]], khả năng ăn và tự sửa chữa chính nó; và [[màng tế bào]] bên ngoài, thứ cho phép thức ăn vào trong vào chất thải đi ra ngoài, nhưng không bao gồm những vật chất không mong muốn.<ref>{{chú thích tạp chí|last=Peretó|first=Juli|year=2005|title=Controversies on the origin of life|url=http://www.im.microbios.org/0801/0801023.pdf|format=PDF|journal=[[International Microbiology]]|volume=8|issue=1|pages=23–31|pmid=15906258|accessdate = ngày 7 tháng 10 năm 2007 |ref=harv}}</ref> Nghiên cứu về hiện tượng tự sinh thì vẫn còn nhiều việc phải làm, vì các hướng tiếp cận theo lý thuyết và theo thực nghiệm thì chỉ mới bắt đầu tiếp xúc với nhau.<ref name="82–85"/><ref>{{chú thích tạp chí|last=Szathmáry|first=Eörs|authorlink=Eörs Szathmáry|date=ngày 3 tháng 2 năm 2005|title=Life: In search of the simplest cell|url=http://www.nature.com/nature/journal/v433/n7025/full/433469a.html|journal=Nature|volume=433|issue=7025|pages=469–470|bibcode=2005Natur.433..469S|doi=10.1038/433469a|accessdate = ngày 1 tháng 9 năm 2008 |pmid=15690023|ref=harv}}</ref>
==== Sao chép trước tiên: thế giới ARN ====
{{main|Last universal ancestor|Thế giới ARN}}
Kể cả những thành viên đơn giản nhất của ba vực sự sống hiện đại cũng sử dụng [[DNA|ADN]] để ghi lại "công thức" của chúng và một dãy phức tạp gồm [[ARN]] và các phân tử [[protein]] để "đọc" những chỉ dẫn này và sử dụng chúng để phát triển, duy trì và tự sao chép. Việc phát hiện ra rằng một số nguyên tử ARN có thể [[xúc tác]] cho cả quá trình sao chép của chính nó lẫn việc tạo ra protein đã dẫn tới giả thuyết về một dạng sống ban đầu dựa hoàn toàn trên ARN.<ref>{{chú thích tạp chí|last1=Luisi|first1=Pier Luigi|authorlink1=Pier Luigi Luisi|last2=Ferri|first2=Francesca|last3=Stano|first3=Pasquale|date=January 2006|title=Approaches to semi-synthetic minimal cells: a review|journal=Naturwissenschaften|volume=93|issue=1|pages=1–13|bibcode=2006NW.....93....1L|doi=10.1007/s00114-005-0056-z|pmid=16292523|ref=harv}}</ref> Những [[ribozyme]] này có thể đã hình thành nên một thế giới ARN mà trong đó có những cá thể nhưng không có loài, vì [[Đột biến sinh học|đột biến]] và chuyển gien theo chiều ngang sẽ có nghĩa là con cái ở mỗi thế hệ có khả năng cao sẽ có [[Bộ gen|bộ gien]] khác với của bố mẹ chúng.<ref name="Hoenigsberg2003SelectionWithoutSpeciation">{{chú thích tạp chí|last=Hoenigsberg|first=Hugo|date=ngày 30 tháng 12 năm 2003|title=Evolution without speciation but with selection: LUCA, the Last Universal Common Ancestor in Gilbert's RNA world|url=http://www.funpecrp.com.br/gmr/year2003/vol4-2/gmr0070_full_text.htm|journal=Genetics and Molecular Research|volume=2|issue=4|pages=366–375|pmid=15011140|accessdate = ngày 30 tháng 8 năm 2008 |ref=harv}}</ref> ARN sau đó sẽ bị thay thế bởi ADN, thứ ổn định hơn và do đó có thể xây dựng bộ gien dài hơn, mở rộng những tiềm năng mà một sinh vật đơn lẻ có thể có.<ref name="Jack T 2004">{{chú thích tạp chí|last1=Trevors|first1=Jack T.|last2=Abel|first2=David L.|date=November 2004|title=Chance and necessity do not explain the origin of life|journal=[[Cell Biology International]]|volume=28|issue=11|pages=729–739|doi=10.1016/j.cellbi.2004.06.006|pmid=15563395|ref=harv}}</ref><ref name="RNANaturalSynthesisProblems"/> Ribozyme vẫn là thành phần chính của [[ribosome]], "nhà máy protein" của tế bào hiện đại.<ref name="Cech 878–879">{{chú thích tạp chí|last=Cech|first=Thomas R.|authorlink=Thomas Cech|date=ngày 11 tháng 8 năm 2000|title=The Ribosome Is a Ribozyme|url=http://www.sciencemag.org/content/289/5481/878.short|journal=Science|volume=289|issue=5481|pages=878–879|doi=10.1126/science.289.5481.878|pmid=10960319|accessdate = ngày 26 tháng 1 năm 2015 |ref=harv}}</ref> Bằng chứng gợi ra rằng phân tử ARN đầu tiên hình thành trên Trái Đất vào 4,17 tỉ năm trước.<ref>{{chú thích tạp chí|last=Pearce|first=Ben K. D.|last2=Pudritz|first2=Ralph E.|last3=Semenov|first3=Dmitry A.|last4=Henning|first4=Thomas K.|date = ngày 24 tháng 10 năm 2017 |title=Origin of the RNA world: The fate of nucleobases in warm little ponds|url=http://www.pnas.org/content/114/43/11327|journal=Proceedings of the National Academy of Sciences|language=en|volume=114|issue=43|pages=11327–11332|doi=10.1073/pnas.1710339114|issn=0027-8424|pmid=28973920}}</ref>