Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Pierre Mendès France”
←Trang mới: “{{Infobox officeholder |name = Pierre Mendès France |image = Pierre Mendès France 1968.jpg |caption = Pierre Mendès France in 1…” |
(Không có sự khác biệt)
|
Phiên bản lúc 17:11, ngày 23 tháng 1 năm 2021
Pierre Mendès France (tiếng Pháp: [pjɛʁ mɑ̃dɛs fʁɑ̃s]; 11 tháng 1 năm 1907 – 18 tháng 10 năm 1982), hay thường được gọi là PMF, là nhà ngoại giao và chính trị gia người Pháp.
Pierre Mendès France | |
---|---|
Pierre Mendès France in 1968 | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 18 June 1954 – 23 February 1955 |
Tiền nhiệm | Joseph Laniel |
Kế nhiệm | Edgar Faure |
Minister of State | |
Nhiệm kỳ | 1 February 1956 – 23 May 1956 |
Tiền nhiệm | Guy La Chambre Jean-Michel Guérin de Beaumont |
Kế nhiệm | Félix Houphouët-Boigny |
Minister of Foreign Affairs | |
Nhiệm kỳ | 18 June 1954 – 20 January 1955 |
Tiền nhiệm | Georges Bidault |
Kế nhiệm | Edgar Faure |
Minister of the National Economy | |
Nhiệm kỳ | 10 September 1944 – 6 April 1945 |
Tiền nhiệm | Pierre Cathala |
Kế nhiệm | René Pleven |
Thông tin chung | |
Sinh | 11 January 1907 Paris |
Mất | 18 tháng 10 năm 1982 Paris | (75 tuổi)
Đảng chính trị | Radical |
Trường lớp | University of Paris |
Mendes France bắt đầu sự nghiệp chính trị từ rất trẻ vào năm 1924, khi tham phản đối hoạt động của phong trào cực hữu. Năm 1932, ông đắc cử dân biểu tỉnh Eure trước khi gia nhập đảng cánh tả Mặt trận Bình dân rồi trở thành một trong những cố vấn trong nội các thủ tướng Léon Blum vào năm 1938. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ông bị Chính phủ Vichy giam giữ, rồi trốn thoát để tham gia Lực lượng không quân tự do Pháp (FAFL). Không lâu sau, ông trở thành cố vấn tài chính rồi bộ trưởng Bộ Kinh tế trong Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp từ tháng 9 năm 1943 tới tháng 4 năm 1945.
Năm 1954, Mendes France được Tổng thống René Coty đề bạt là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Ông trực tiếp là người hòa giải kết thúc Chiến tranh Đông Dương[1], vẽ nên lộ trình hòa bình cho Tunisia và phát triển Maroc. Tuy nhiên, thái độ cứng rắn của ông đối với Algérie đã khơi mào nên Chiến tranh Algérie đẫm máu cũng như sự ra đi của chính phủ của ông vào năm 1955, góp phần gây nên làn sóng phản đối chế độ thuộc địa và sự sụp đổ của chế độ này. Sau đó, Mendes France trở thành Quốc vụ khanh trong chính phủ của Guy Mollet vào năm 1956, nhưng từ chức gần như ngay lập tức vì những bất đồng trong vấn đề Algérie.
Ông bỏ phiếu "chống" trong việc bổ nhiệm Charles de Gaulle vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước vào năm 1958, và không lâu sau thất bại trong việc có được phiếu bầu dân biểu vào tháng 11 cùng năm. Năm 1967, Mendes France trúng cử dân biểu tỉnh Isère nhưng rồi tiếp tục thất bại chỉ 1 năm sau đó. Năm 1968, ông liên danh cùng ứng cử viên Gaston Defferre cho cuộc bầu cử Tổng thống Pháp năm 1969.
Dù chỉ lãnh đạo chính phủ Pháp chưa tới 8 tháng, Mendes France đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực tới nền chính trị Pháp cũng như cấu trúc cánh tả của đất nước này. Ngày nay, ông vẫn được coi là hình mẫu cho nhiều thế hệ chính trị gia Pháp và là một nhà lãnh đạo được đánh giá cao trong lịch sử Pháp.
Tham khảo
- ^ Thomas J. Christensen (2011). Worse Than a Monolith: Alliance Politics and Problems of Coercive Diplomacy in Asia. Princeton UP. tr. 123–25. ISBN 978-1400838813.