Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Nhân Tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa chữ Hán Qua trình soạn thảo trực quan: Đã chuyển |
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động Sửa đổi từ ứng dụng Android |
||
Dòng 47:
'''Lý Nhân Tông''' ([[chữ Hán]]: 李仁宗 [[22 tháng 2]] năm [[1066]] – [[15 tháng 1]] năm [[1128]]) là vị [[vua Việt Nam|hoàng đế]] thứ tư của [[nhà Lý]] trong [[lịch sử Việt Nam]]. Ông trị vì [[Đại Việt]] từ năm [[1072]] đến năm 1128, tổng cộng 56 năm.
Ông tên thật là '''Càn Đức''', là con trai đầu lòng của [[Lý Thánh Tông]]. Năm [[1072]], Thánh Tông qua đời, Thái tử Càn Đức 7 tuổi lên ngôi tức vua Nhân Tông. Mẹ đích của Nhân Tông là [[Thượng Dương hoàng hậu|
Dưới thời trị vì của Nhân Tông, nước Việt phồn vinh, "dân được giàu đông".{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=109}} Ông rất quan tâm đến [[nông nghiệp]] – [[thủy lợi]], đã cho đắp đê ở nhiều nơi và mở rộng luật cấm giết trâu. Thời Nhân Tông còn nổi bật với việc tổ chức [[Khoa bảng Việt Nam|khoa thi Nho học đầu tiên của Đại Việt]] (1075) và xây dựng [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám|Văn Miếu – Quốc Tử Giám]] (1076). [[Phật giáo]] cũng phát triển; nhà vua và mẹ là Linh Nhân đều là những Phật tử mộ đạo, đã cho xây nhiều chùa tháp và khuyến khích việc hành đạo của các [[thiền sư]]. Về đối ngoại, năm [[1075]], [[nhà Tống|đế quốc Tống]] dòm ngó [[Đại Việt]], Nhân Tông sai [[Lý Thường Kiệt]] đi đánh, liên tiếp phá tan quân Tống ở 3 châu Ung, Khâm, Liêm (đất Tống) và [[Sông Cầu|sông Như Nguyệt]] (đất Việt). Sau năm [[1077]], giữa Việt và Tống không còn cuộc chiến lớn nào. Trong khi đó các nước [[Chiêm Thành]], [[Chân Lạp]] thần phục Đại Việt, thường gửi sứ sang cống.
|