Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hàn Mặc Tử”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ok
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Reverted to revision 64307201 by TuanminhBot (talk)
Thẻ: Twinkle Lùi sửa
Dòng 23:
}}
 
'''Hàn Mặc Tử''' hay '''Hàn Mạc Tử''', tên thật là '''Nguyễn Trọng Trí hay Phê Rô Phanxicô''' Nguyễn việtTrọng hưngTrí ([[22 tháng 9]] năm [[1912]] – [[11 tháng 11]] năm [[1940]]) là [[nhà thơ]] nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại [[Việt Nam]], là người khởi xướng ra ''[[Trường thơ Loạn]]''.
Hàn Mặc Tử cùng với [[Quách Tấn]], [[Yến Lan]], [[Chế Lan Viên]] được người đương thời ở nam [[Bình Định|Định]] gọi là ''[[Bàn thành tứ hữu]]'', nghĩa là ''Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn''.<ref>Trong số bạn, Hàn Mặc Tử và Quách Tấn có mối thâm tình thật đặc biệt. Xem thêm [[Quách Tấn]] và [[Bàn thành tứ hữu]]</ref>
 
==Tiểu sử==
[[Tập tin:Han Mac Tử và người tình.jpg|nhỏ|200px|phải|Hàn Mạc Tử và những người tình trong thơ: [[Thương Thương]], [[Hoàng Thị Kim Cúc|Kim Cúc]], [[Mộng Cầm]], [[Ngọc Sương]], [[Mai Đình]]]]
Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở [[Thanh Hóa]]. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào [[Thừa Thiên Huế|Thừa Thiên – Huế]] đổi họ Nguyễn theo họ mẹ. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời [[Tự Đức|vua Tự Đức]]), sinh hạ được 8 người con:
#
 
# Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn
nguyễn việt hưng bắc đại 2 thị trấn cát thành huyện trực ninh tỉnh nam định
# Nguyễn Thị Như Lễ
# Nguyễn Thị Như Nghĩa
# Nguyễn Trọng Trí
# Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ [[Quy Hòa]] về [[Ghềnh Ráng]] vào ngày [[13 tháng 2]] năm [[1959]]).
# Nguyễn Bá Hiếu
# Nguyễn Văn Hiền
# Nguyễn Văn Thảo
 
'''Hàn Mặc Tử''' tên thật là '''Nguyễn Trọng Trí''', sinh ở làng Lệ Mỹ, [[Đồng Hới]], [[Quảng Bình]] khi ông Nguyễn Văn Toản đang làm Chủ sự Sở Thương Chánh Nhật Lệ – Đồng Hới; lớn lên, Hàn Mặc Tử theo cha đi nhiều nơi và theo học ở các trường Tiểu học Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921–1923), Sa Kỳ (1924)... đến năm 1926, cụ thân sinh của Hàn Mặc Tử bị bệnh và mất ở Huế, Hàn Mặc Tử được mẹ cho học tiếp ở trường Pellevin - Huế. Năm 1930, Hàn Mặc Tử mới thôi học theo mẹ vào [[Quy Nhơn]], tỉnh [[Bình Định]]. Gia đình ông theo đạo [[Công giáo]], ông được [[rửa tội]] tại [[Nhà thờ Tam Tòa]] với [[tên thánh]] là Phê Rô ''Phanxicô''.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/thi-nhan-han-mac-tu.htm|title=Thi nhân Hàn Mặc Tử|last=|first=|date=|website=Cổng thông tin điện tử tình Quảng Bình|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref>
{{wikisource tác giả}}Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9, 1912 – mất 11 tháng 11, 1940) là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn.
 
Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do cha ông là Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như [[Sa Kỳ]] ([[1920]]), [[Quy Nhơn]], [[Bồng Sơn]] ([[1921]]–[[1923]]), [[Pellerin Huế]] ([[1926]]).
Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
 
'''Hàn Mạc Tử''', '''Lệ Thanh''', '''Phong Trần''' là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ [[Phan Bội Châu]] và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu [[Thơ|bài thơ]] ''Thức khuya'' của mình lên một [[Báo viết|tờ báo]]. Sau này, ông nhận một suất [[học bổng]] đi [[Pháp]] nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở [[Sở Đạc Điền]].
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con: 1-Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. 2- Nguyễn Thị Như Lễ. 3- Nguyễn Thị Như Nghĩa. 4- Nguyễn Trọng Trí (tức nhà thơ Hàn Mặc Tử). 5- Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13-02-1959). 6- Nguyễn Bá Hiếu; 2 người em út: Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Văn Thảo.
 
Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo ''Công luận''. Khi ấy, [[Mộng Cầm]] ở [[Phan Thiết]] cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra [[Phan Thiết]] gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.
Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do thân phụ là ông Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926).
 
Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm [[1935]], họ đã phát hiện những dấu hiệu của [[bệnh phong]] trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm [[1936]], khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi [[Huế]], [[Sài Gòn]], [[Quảng Ngãi]], vào [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ ''[[Phụ nữ tân văn]]'', quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến [[Bệnh|bệnh tật]] của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại "phong ngứa" gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn [[bệnh nan y]]. Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào [[trại phong Quy Hòa]], Nguyễn Bá Tín, [[anh chị em|em ruột]] của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: ''Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng''.
Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền.
 
Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm [[bác sĩ]] Gour Vile - Giám đốc Bệnh viện Quy Nhơn. Bác sĩ nói rằng: ''Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ''. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà [[Mộng Cầm]] ở [[lầu Ông Hoàng]] ([[Phan Thiết]]), qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do [[Phong cùi|trực khuẩn Hansen]] gây nên.
Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.
 
Thời đó, vì [[thành kiến]] sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bệnh nhân thường bị hắt hủi, cách ly, xa lánh, thậm chí bị ngược đãi. Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với [[chính quyền địa phương]] vì họ đã hay tin ông mắc căn [[bệnh truyền nhiễm]], đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị là phản [[khoa học]] vì lẽ ra phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, [[bác sĩ]] Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử qua đời do nội tạng hư hỏng quá nhanh vì uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.
Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại "phong ngứa" gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.
 
Ông bỏ tất cả quay về [[Quy Nhơn]] vào [[Trại phong Quy Hòa|nhà thương Quy Hòa]] (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng [[11 tháng 11]] năm [[1940]] tại đây vì chứng bệnh kiết lỵ,<ref>{{Chú thích báo
Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (Phan Thiết), qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên.
| tên=
| họ=
| tác giả=Hoàng Nguyên Vũ
| đồng tác giả=
| url=http://antg.cand.com.vn/vi-vn/sukien/2007/5/62321.cand
| tên bài=Hàn Mặc Tử không chết vì bệnh phong?
| công trình=
| nhà xuất bản=Báo Công An Nhân dân
| số=
| các trang=
| trang=
| ngày = 2007-05-08
| ngày truy cập = 2010-06-05
| url lưu trữ=http://antg.cand.com.vn/vi-vn/sukien/2007/5/62321.cand
| ngày lưu trữ=8/5/2007
| ngôn ngữ=tiếng Việt
| trích dẫn=Bài viết có sử dụng một số tư liệu do nhà báo Trần Đình Thu cung cấp
}}</ref> khi mới bước sang tuổi 28.<ref>Theo [http://web.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2005/4/4/78147.tno Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ: Cái chết được báo trước trong thơ] trên [[thanh Niên (báo)|báo Thanh Niên]] ngày 20/01/2005.</ref>
 
Cuộc đời Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, [[Mai Đình]], [[Mộng Cầm]], [[Thương Thương]], [[Ngọc Sương]], [[Thanh Huy]], [[Mỹ Thiện]].
Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bao nhiêu bệnh nhân đã bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi, thì Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học vì lẽ ra cần phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa.. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.
 
===Bút danh Hàn Mặc Tử===
Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.
[[Tập tin:MoHanMacTu.jpg|nhỏ|phải|Ngôi mộ đầu tiên của Hàn Mặc Tử (nay là ngôi mộ gió) tại Trại phong Quy Hòa.]]
'''Nguyễn Trọng Trí''' làm thơ từ năm 16 tuổi lấy hiệu là '''Phong Trần''' rồi '''Lệ Thanh'''. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là '''[[Thảo luận:Hàn Mặc Tử|Hàn Mạc Tử]]''', sau ông lại đổi thành '''Hàn Mặc Tử'''. ''"Hàn Mạc Tử"'' nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. "Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên".
 
==Tác phẩm==
Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Các sáng tác của Hàn Mặc Tử, gồm có:
* '''Lệ Thanh thi tập''' (gồm toàn bộ các bài thơ [[Đường luật]])
*'''Gái Quê''' (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời)
*'''Thơ Điên''' (hay Đau Thương, thơ gồm ba tập: ''1. Hương thơm''; ''2. Mật đắng''; ''3. Máu cuồng và hồn điên-''1938)
*'''Xuân như ý'''
*'''Thượng Thanh Khí''' (thơ)'''
*'''Cẩm Châu Duyên'''
*'''Duyên kỳ ngộ''' (kịch thơ-1939)
*'''Quần tiên hội''' (kịch thơ, viết dở dang-1940)
*'''Chơi Giữa Mùa Trăng''' (tập thơ-văn xuôi)
Ngoài ra còn có một số bài phóng sự, tạp văn, văn tế...<ref>Phần liệt kê tác phẩm, căn cứ theo quyển ''Hàn Mặc Tử- Hương thơm và mật đắng'', do Trần Thị Huyền Trang biên soạn. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1990, tr. 6.</ref> Xem thêm chi tiết ở bên dưới.
 
==Bình luận và nhận xét==
Nguyễn Trọng Trí làm thơ từ năm mười sáu tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử. "Hàn Mạc Tử" nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. "Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên".
Đánh giá và bình luận về tài thơ của Hàn Mặc Tử có rất nhiều, sau đây là một số đánh giá của các nhà thơ văn nổi tiếng:
*
[[Tập tin:Mộ hàn mạc Tử.JPG|nhỏ|300px|phải|Mộ Hàn Mạc Tử ở Ghềnh Ráng]]
*"''Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình''"
*"''Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử.''"
*:(Nhà thơ [[Chế Lan Viên]])
*"''Sẽ không thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc.''"
*:(Nhà phê bình văn học [[Phan Cự Đệ]])
*"''Hàn Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có bốn bài đạt đến độ toàn bích. Còn lại là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này, phi Hàn Mặc Tử, không ai có thể viết nổi. Tiếc là những câu thơ ấy lại nằm trong những bài thơ còn rất nhiều xộc xệch...''"
*:(Nhà thơ [[Trần Đăng Khoa (nhà thơ)|Trần Đăng Khoa]])
*"''...Theo tôi thơ đời Hàn Mặc Tử sẽ còn lại nhiều. Ông là người rất có tài, đóng góp xứng đáng vào [[Thơ mới]].''"
*:(Nhà thơ [[Huy Cận]])
*"''...Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng...''" và "''Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh...''"
*:(Nhà phê bình văn học [[Hoài Thanh]])
*'''Khen chê lúc khuất:'''
{{Cquote|''Một người đau khổ đến nhường ấy, lúc sống ta hờ hững bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn.''|200px||''Mai 1941''}}
 
==Tuyển tập==
 
===''Gái quê'' (1936)===
{|
|
* ''Âm thầm''
* ''Bẽn lẽn''
* ''Duyên muộn''
* ''Đời phiêu lãng''
* ''Em lấy chồng''
* ''Gái quê''
|
* ''Hái dâu''
* ''Lòng quê''
* ''Mất duyên''
* ''Một đêm nói chuyện với gái quê''
* ''Mơ''
* ''Nắng tươi''
|
* ''Nhớ chăng''
* ''Nhớ nhung''
* ''Nụ cười''
* ''Quả dưa''
* ''Sượng sùng''
* ''Tiếng vang''
|
* ''[[Tình quê]]''
* ''Tình thu''
* ''[[Tôi không muốn gặp]]''
* ''Trái mùa''
* ''Uống trăng''
|}
 
===''Thơ điên'' (sau đổi thành ''Đau thương'', 1938)===
 
====''Hương thơm''====
{|
|
* ''Bắt chước''
* ''Cao hứng''
* ''Chuỗi cười''
* ''[[Đà Lạt trăng mờ]]''
|
* ''[[Đây thôn Vĩ Dạ]]''
* ''Ghen''
* ''Huyền ảo''
* ''Lưu luyến''
|
* ''Mơ hoa''
* ''[[Mùa xuân chín]]''
* ''Sáng trăng''
* ''Say nắng''
|
* ''Thi sĩ Chàm''
* ''Thời gian''
* ''Tối tân hôn''
* ''[[Trăng vàng trăng ngọc]]''
|}
* '' Đôi ta ''
* ''Những giọt lệ ''
* '' Cuối thu ''
* '' Đàn ngọc ''
* '' Hãy nhập hồn em ''
* '' Sầu vạn cổ ''
* '' Trường tương tư ''
 
====''Mật đắng''====
{|
|
* ''Cuối thu''
* ''Dấu tích''
* ''Đôi ta''
|
* ''Gửi anh''
* ''Hãy nhập hồn em''
* ''Khói hương tan''
|
* ''Muôn năm sầu thảm''
* ''Những giọt lệ''
* ''Sầu vạn cổ''
|}
 
====''Máu cuồng và hồn điên''====
{|
|
* ''Biển hồn ta''
* ''Chơi trên trăng''
* ''Cô gái đồng trinh''
* ''Cô liêu''
* ''Hồn là ai''
|
* ''Một miệng trăng''
* ''Ngoài vũ trụ''
* ''Ngủ với trăng''
* ''Người ngọc''
* ''Rướm máu''
|
* ''Rượt trăng''
* ''Sáng láng''
* ''Say trăng''
* ''Trăng tự tử''
|
* ''Trút linh hồn''
* '' Trường tương tư''
* ''Ước ao''
* ''Vớt hồn''
|}
 
===''Xuân như ý''===
{|
|
* ''Anh điên''
* ''Ave Maria''
* ''Bến Hàn Giang''
* ''Đêm xuân cầu nguyện''
|
* ''Điềm lạ''
* ''Em điên''
* ''Hãy đón hồn anh''
* ''Lang thang''
|
* ''Nguồn thơm''
* ''Nhớ thương''
* ''Phan Thiết! Phan Thiết!''
* ''Ra đời''
|
* ''Say chết đêm nay''
* ''Say thơ''
* ''Ta nhớ mình xa (Một nửa trăng)''
* ''Xuân đầu tiên''
|}
 
===''Thượng thanh khí''===
{|
|
* ''Buồn ở đây''
* ''Cưới xuân, cưới vợ''
* ''Hương''
|
* ''Mơ duyên''
* ''Nhạc''
* ''Nói tiên tri''
|
* ''Sao, vàng sao (Đừng cho lòng bay xa)''
* ''Tài hoa''
* ''Tình hoa''
|
* ''Trường thọ''
* ''Ưng trăng''
* ''Vầng trăng''
|}
 
===''Cẩm châu duyên''===
* ''Nỗi buồn vô duyên''
* ''Tiêu sầu''
 
===Kịch thơ của Huỳnh Nghi===
* ''Duyên kỳ ngộ'' (1939)
* ''Quần tiên hội'' (1940)
 
===Khác===
{|
|
* ''Biết anh''
* ''Bút thần khai''
* ''Chùa hoang''
* ''Đi thuyền''
|
* ''Em đau''
* ''Em sắp lấy chồng''
* ''Hồn lìa khỏi xác''
* ''Một cõi quên''
|
* ''Này đây lời ngọc song song''
* ''Nhớ Trường Xuyên''
* ''Nước mây''
* ''Rụng rồi''
|
* ''Say máu ngà''
* ''Siêu thoát''
* ''Thương''
* ''Tự thuật''
|}
 
==Tác phẩm được phổ nhạc==
* ''Đây thôn Vỹ Dạ'' được [[Phan Huỳnh Điểu]] và [[Hoàng Thanh Tâm]] phổ nhạc
* ''Đà Lạt trăng mờ'' và ''[[Tình quê]]'' được [[Phạm Duy]] phổ nhạc.
*Huyền Thoại được Phan Mạnh Quỳnh phổ nhạc
 
==Lời chú ấn tượng==
*'''Ra đời (Xuất thế gian):'''
{{Cquote|''Phật giáo chia thế giới làm hai cõi: Thế gian và xuất thế gian, tức là thế giới hữu hình và thế giới vi vô, đây sánh xuất thế gian với cõi thanh tịnh của lòng''.|200px||''Hàn Mạc Tử''}}
 
==Vinh danh==
Hàn Mặc Tử được biết đến là chủ soái của trường thơ loạn (Chế Lan Viên, Yến Lan, Bích Khê).
 
Nhiều nơi ở Việt Nam dùng tên của ông để đặt cho đường phố như:<ref>[http://postcode.vnpost.vn/services/search.aspx Tra cứu mã bưu chính] theo từ khóa "Hàn Mặc Tử"</ref>
#[[Bà Rịa - Vũng Tàu]] (Đường Hàn Mạc Tử, phường 7, [[Vũng Tàu]])
#Đà Nẵng (Đường Hàn Mạc Tử, phường [[Thuận Phước]], [[Hải Châu, Đà Nẵng|Hải Châu]])
#[[Đắk Lắk]] (Đường Hàn Mặc Tử, phường [[Tân An]], [[Buôn Ma Thuột]])
#[[Huế]] (Đường Hàn Mạc Tử, phường [[Vĩ Dạ|Vỹ Dạ]], Huế, [[Thừa Thiên Huế]])
#[[Nghệ An]] (Đường Hàn Mạc Tử, phường [[Trung Đô]], [[Vinh]])
#[[Phan Thiết]] (con đường dẫn lên [[Lầu Ông Hoàng]])
#[[Quảng Bình]] (Đường Hàn Mặc Tử, phường [[Đồng Mỹ]], [[Đồng Hới]])
#[[Thanh Hóa]] (Phố Hàn Mặc Tử, phường [[Trường Thi, thành phố Thanh Hóa|Trường Thi]], [[Thanh Hóa (thành phố)|Thanh Hóa]])
#[[Thành phố Hồ Chí Minh]] (Đường Hàn Mạc Tử, phường Số 12, [[Tân Bình]] và ở phường [[Tân Thành]], [[Tân Phú]]), đường Nguyễn Trọng Trí, Quận Bình Tân, gần [[Bến xe Miền Tây]].
 
=== Sáng tác văn nghệ về Hàn Mặc Tử ===
Năm 2004, [[Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh]] (TFS) đã thực hiện bộ phim ''Hàn Mặc Tử'' để kỷ niệm ông.
 
[[Trần Thiện Thanh]] (hay [[Nhật Trường]]), một nhạc sĩ nổi tiếng thuộc dòng nhạc vàng và nhạc trữ tình tại miền Nam Việt Nam trước 1975, đồng thời là một người sinh trưởng tại [[Phan Thiết]], có sáng tác một bài hát nổi tiếng nói về cuộc đời Hàn Mặc Tử. Bài hát đã được chính tác giả (Nhật Trường) nhiều ca sĩ dòng nhạc vàng cả ở Việt Nam và hải ngoại thu âm.
 
==Các bản dịch ra tiếng nước ngoài==
Năm 2001, nhà xuất bản [[:fr:Éditions Arfuyen|Arfuyen]] đã xuất bản tuyển tập thơ của Hàn Mặc Tử sang tiếng Pháp, lấy tên ''Le Hameau des roseaux'' ([[Đây thôn Vĩ Dạ]]) do Hélène Péras và Vũ Thị Bích dịch.<ref>{{chú thích web
| url = http://www.nhanvan.com/magazines/vanhoc/194/thuykhue_%20heleneperasvahanmactu.htm
| title = Hélène Péras và Hàn Mặc Tử
| accessdate = 9/7/2011
| accessmonthday =
| accessyear =
| author = Thụy Khuê
| last =
| first =
| authorlink =
| coauthors =
| date = 27/04/2002
| year = [[Tiếng Việt]]
| month =
| format =
| work =
| publisher =
| pages =
| language =
| archiveurl =
| archivedate =
}}</ref><ref>{{chú thích web
| url = http://www.arfuyen.fr/html/fichelivre.asp?id_livre=276
| title = HAN MAC TU - Le Hameau des roseaux
| accessdate = 9/7/2011
| accessmonthday =
| accessyear =
| author = Arfuyen
| last =
| first =
| authorlink =
| coauthors =
| date =
| year =
| month =
| format =
| work =
| publisher =
| pages =
| language = [[Tiếng Pháp]]
| archiveurl =
| archivedate =
}}</ref><ref>{{ISBN|2-908-82596-1}}</ref>
 
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
 
==Liên kết ngoài==
{{wikisource tác giả}}
* {{TĐBKVN|9433}}
*Tạp chí Hoạt động Khoa Học (số 08.2005), [http://www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=1861 Phương pháp luận trong nghiên cứu văn học], ''Tạp chí Hoạt động Khoa Học''.
* [https://vnexpress.net/100-phut-cuoi-cua-han-mac-tu-dep-nhung-chua-tham-1889651.html '100 phút cuối của Hàn Mặc Tử' đẹp nhưng chưa thấm] Lê Bảo [[VnExpress]] 13/8/2006
{{Thời gian sống|1912|1940}}
{{Kiểm soát tính nhất quán}}
{{Hàn Mặc Tử}}