Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phản hydro”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: clean up, CS1 error fixes using AWB
→‎Phát hiện: AlphamaEditor, thay tham số coauthor không tồn tại, Executed time: 00:00:02.5540266 using AWB
Dòng 10:
== Phát hiện ==
[[Tập tin:Antihydrogen creation.svg|nhỏ|Quy trình tạo phản hidro đầu tiên năm 1995]]
Từ năm 1995, phản hydro đã được một nhóm các nhà nghiên cứu, đứng đầu là [[Walter Oelert]], tại phòng thí nghiệm [[CERN]] ở [[Genève|Geneva]] tạo ra đầu tiên bằng [[máy gia tốc hạt]].<ref name="Discover Freedman">{{Chú thích báo|title=Antiatoms: Here Today...|first=David H|last=Freedman|work=[[Discover (tạp chí)|Discover]]|publisher=[[Kalmbach Publishing]]|date=tháng 1 năm 1997|url=http://discovermagazine.com/1997/jan/antiatomsheretod1029|language=tiếng Anh}}</ref> Thí nghiệm diễn ra ở [[LEAR]] (''Low Energy Antiproton Ring'', Vòng phản proton năng lượng thấp), nơi các phản proton được tạo ra trong một máy gia tốc, bị bắn tại một [[Cụm (vật lý)|cụm]] [[xenon]].<ref name="first-AH">{{Chú thích tạp chí|title=Production of Antihydrogen|author=G. Baur|firstauthors=G.|last= Baur|coauthors=; G. Boero; S. Brauksiepe; A. Buzzo; W. Eyrich; R. Geyer; D. Grzonka; J. Hauffe; K. Kilian; M. LoVetere; M. Macri; M. Moosburger; R. Nellen; W. Oelert; S. Passaggio; A. Pozzo; K. Röhrich; K. Sachs; G. Scheppers; T. Sefzick; R. S. Simon; R. Stratmann; F. Stinzing; M. Wolke|journal=[[Physics Letters B]]|publisher=[[Elsevier]]|volume=368|year=1996|pages=251ff|language=tiếng Anh}}</ref> Khi một phản proton đến gần một nhân xenon, một cặp điện tử–positron có thể được tạo ra, và với vài khả năng positron sẽ bị bắt giữ bởi phản proton để tạo phản hydro. Xác suất tạo ra nguyên tử phản hydro từ một phản proton chỉ là {{val|e=-19}}, do đó phương pháp này không phù hợp lắm cho việc sản xuất số lượng đáng kể nguyên tử phản hydro, do các tính toán chi tiết không được chỉ ra trước đây.<ref name="first-calc">{{Chú thích tạp chí|title=Electromagnetic Pair Production with Capture|author=A. Aste|firstauthors=A.|last= Aste|coauthors=; G. Baur; D. Trautmann; K. Hencken|journal=[[Physical Review A: Atomic, Molecular and Optical Physics]]|volume=50|year=1993|pages=3980ff|language=tiếng Anh}}</ref>
 
Các thí nghiệm thực hiện tại CERN được tiến hành về sau, vào năm 1997, được thực hiện lại tại [[Fermilab]] ở [[Hoa Kỳ]] nơi phần giao cắt khác của quá trình đã được xác định.<ref name="Blanford">{{Chú thích tạp chí|last=Blanford|firstauthors=G.|coauthors= Blanford; D. C. Christian; K. Gollwitzer; M. Mandelkern; C. T. Munger; J. Schultz; G. Zioulas|month=12|year=1997|title=Observation of Atomic Antihydrogen|journal=[[Physical Review Letters]]|publisher=[[Fermilab|Phòng thí nghiệm Máy gia tốc Quốc gia Fermi]]|quote=FERMILAB-Pub-97/398-E E862... p and H experiments}}</ref> Cả hai thí nghiệm đã dẫn đến kết quả các nguyên tử phản hydro năng lượng cao hay "nóng" mà không phù hợp cho nghiên cứu chi tiết. Do đó, CERN đã xây [[máy giảm tốc phản proton]] nhằm hỗ trợ các nỗ lực theo hướng tạo ra các phản hydro năng lượng thấp có thể sử dụng cho các thử nghiệm đối xứng cơ bản.
{|
|[[Tập tin:ATHENA Mixing trap at CERN vi.svg|nhỏ|250px|Quy trình pha trộn phản hidro]] || [[Tập tin:CERN LEAR.jpg|nhỏ|380px|LEAR ở CERN, nơi các phản hidro đầu tiên được tạo ra]]