Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quản Lộ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 76:
 
===Phong thủy===
Lộ theo quân đội đi về phía tây, qua mộ nhà [[Quán Khâu Kiệm]], dựa cây than thở, tinh thần không vui. Người ta hỏi lý do, Lộ nói: “Cây rừng dẫu tươi tốt, nhưng không có dáng vẻ lâu dài; văn bia dẫu hay ho, nhưng không có con cháu coi giữ. Huyền Vũ giấu đầu, Thương Long không chân, Bạch Hổ ngậm thây, Chu Tước thương khóc, bốn nguy cơ đã đủ, phép đáng bị diệt tộc. Không quá 2 năm, sẽ ứng nghiệm thôi.” Rốt cục như lời ông. {{refn|group=TT|'''Trần Thọ, tlđd''': Lộ theo quân tây hành, qua mộ nhà Quán Khâu Kiệm, dựa cây ai ngâm, tinh thần không vui. Người ta hỏi cớ, Lộ nói: “Cây rừng dẫu tươi, không có hình thế ưng lâu dài; văn bia dẫu hay, không có hậu nhân ưng coi giữ. Huyền Vũ giấu đầu, Thương Long không chân, Bạch Hổ ngậm thây, Chu Tước thương khóc {{efn|Nguyên văn: 玄武藏头, 苍龙无足, 白虎衔尸, 硃雀悲哭/Huyền Vũ tàng đầu, Thương Long vô túc, Bạch Hổ hàm thi, Chu Tước bi khốc, nghĩa là Huyền Vũ giấu đầu, Thương Long không chân, Bạch Hổ ngậm thây, Chu Tước thương khóc. Lễ ký, Khúc lễ thượng: “Hành: tiền Chu Điểu nhi hậu Huyền Vũ, tả Thanh Long nhi hữu Bạch Hổ.” (tạm dịch: Theo đó: trước Chu Tước rồi sau Huyền Vũ, trái Thanh Long (Thương tức là Thanh, mùa thu – đông dùng chữ Thương, xuân – hạ dùng chữ Thanh) rồi phải Bạch Hổ.) Huyền Vũ tàng đầu là mặt sau có thế núi đứt gãy, tức long mạch đã tận, tục gọi là đất không nhận xác. Thương Long (hay Thanh Long) vô túc là mặt trái có thế núi dựng đứng, không có dốc thoải. Bạch Hổ ngậm thây là mặt phải có thế núi trập trùng, hiểm trở. Chu Tước thương khóc là mặt trước có dòng nước chảy xiết, khiến minh đường không thể tụ khí. Đời sau dựa vào nhận xét này của Quản Lộ để gọi 4 thế núi này là “tứ thế phá tổn” hay “tứ đại hung địa.”}}, bốn nguy đã đủ, phép đáng diệt tộc. Không quá 2 năm, sự ứng nghiệm đến vậy.” Rốt cục như lời ông.}}
 
==Lý luận==