Khác biệt giữa bản sửa đổi của “A-di-đà”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm tên tiếng Phạn của Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát
n Sửa lỗi chính tả
Dòng 35:
[[Tập tin:Seated Buddha Amitabha statue.jpg|nhỏ|Tượng Phật A Di Đà ngồi, phía tây [[Borobudur]] (Java, Indonesia), khoảng năm. 1863-1866.]]
[[Tập tin:Seated Amida Nyorai (Amitabha), Kamakura period, 12th-13th century, wood with gold leaf and inlaid crystal eyes - Tokyo National Museum - DSC05345.JPG|nhỏ| Amitabha, thời [[Kamakura]], thế kỷ 12, 13, gỗ với vàng lá và đôi mắt dát pha lê - [[Bảo tàng Quốc gia Tokyo]]]]
Trong những hình thái phổ quát hoá của nó, niềm tin vào A-di-đà vẫn tiếp tục cho đến ngày này bao gồm đa dạng các phương pháp thực hành và đối tượng thờ cúng. Một niềm tin phổ thông là tin rằng tịnh thổ Sukhāvatī, được ban phước bởi 2 vị bồ tát: [[Quán Thế Âm]] hay Avalokiteśvara và [[Đại Thế Chí]] hay Mahāsthāmaprāpta, đặc biệt là''' '''Quán Thế Âm, vốn thường được gắn với sự thỉnh nguyện hồng danh của A-di-đà, trì tụng danh hiệu ngài có thể mang bồ tát Quán Thế Âm đến cứu giúp người tụng niệm. Sự trùng lắp nhiều niềm tin và phương pháp thực hành khác nhau, giống như sự chồng chéo của những vị cứu thế và những hình tượng thiêng liêng, có lẽ đó là bối cảnh chung nhất cho sự xuất hiện của A-di-đà đó là trường hợp ở [[Phật giáo Trung Quốc|Trung Quốc]], [[Phật giáo Hàn Quốc|Hàn Quốc]], [[Phật giáo Việt Nam|Việt Nam]] và ở [[Phật giáo Nhật Bản|Phật giáo Nhật bản]] ngoại trừ Phật giáo độc quyền của những cải cách Kamakura.
 
Nhận thức về A-di-đà như là một trong những vị cứu thế hay sự liên kết giữa niềm tin vào ôngNgài và những năng lực siêu việt của Quán Thế Âm, là những chủ đề phổ biến xuyên suốt [[Phật giáo Châu Á|Phật giáo Á Châu]]. Không phải là tự nhiên mà [[Panchen Lama]] (Ban thiền Lạt-ma) của [[Tây Tạng]] lại được xem là tái sinh của A-di-đà, trong khi vị quyền lực hơn kia ở [[Lhasa]], [[Dalai Lama]] (Đạt-lai Lạt-ma), thì được xem là sự tái sinh của bồ tát [[Avalokiteshvara|Quán Thế Âm]] (dù bản thân ông đã phủ nhận điều đó).
 
==Tịnh độ tông==
Dòng 52:
Do có nhiều cách hiểu khác nhau, nên đức tin này dẫn tới nhiều giáo lý đối đầu thậm chí trái ngược nhau.
 
Trong Kinh Phật, Phật A Di đà được đức Phật Thích Ca (đức Phật của Hiện tại) giới thiệu và ca ngợi lần đầu tiên trong Kinh Vô Lượng Thọ. Theo lời của Đức Phật Thích Ca, để thành đạo Thức Tỉnh (tức đạt được Giải Thoát hoàn toàn) thì có 8 vạn 4 ngàn phámpháp môn để trở nên đạt đạo (con số tượng trưng chỉ ra rằng có rất nhiều cách để thành Phật chứ không hẳn là chỉ có 1 cách Tu mới thành Phật) tùy theo từng hoàn cảnh từng con người cụ thể mà người ta có thể tự do lựa chọn cho mình phương thế khác nhau để đạt quả vị tối thượng Phật (nghĩa là thực sự Thức Tỉnh, được giải thoát, đạt đạo).
 
Trong vô số con đường đó, Đức Phật Thích Ca cho biết con đường vãng sanh Tịnh độ của Phật A Di Đà là con đường ngắn nhất dành cho mọi loài để thành Phật chỉ trong một kiếp sống, Và Phật Thích Ca còn nhấn mạnh rằng, con đường của đức Phật A Di đàĐà sẽ là con đường duy nhất còn tồn tại thêm 100 năm nữa sau khi mọi con đường thành đạo khác đã bị lãng quên vào thời mạt pháp( (pháp môn, Phật pháp), cho đến hết thời mạt pháp (nên hiểu ý sâu xa của Ngài rằng, dù cho các con đường khác có bị lãng quên thì con đường của Phật A Di Đà sẽ vẫn luôn còn đó khi vẫn còn có người có đức tin vào đó). Cụ thể những điều này được mô tả trong Vô Lượng thọThọ Kinh:”<ref name=":0">{{Chú thích web|url=http://dieuamdieungo.com/y-nghia-ho-phap-2-3-3-2-2-2-2-3-2-2-2-2-2-3-2-2/|title=PHẬT A MI ĐÀ LÀ AI?|last=Diệu Âm|first=Diệu Ngộ|date = ngày 12 tháng 3 năm 2017 |website=http://dieuamdieungo.com/|archive-url=https://web.archive.org/web/20190315062702/http://dieuamdieungo.com/y-nghia-ho-phap-2-3-3-2-2-2-2-3-2-2-2-2-2-3-2-2/|archive-date = ngày 15 tháng 3 năm 2019 |url-status=http://dieuamdieungo.com/y-nghia-ho-phap-2-3-3-2-2-2-2-3-2-2-2-2-2-3-2-2/|accessdate = ngày 15 tháng 3 năm 2019}}</ref>
 
Có thể tóm gọn câu chuyện trong đoạn kinh như sau, Đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai (đấng thánh thiện vượt trỗi không gian và thời gian, ở ngoài không gian và thời gian, không quá khứ hiện tại hay tương lai không sinh không diệt, tự mình mà có, vượt quá mọi khả năng hiểu biết và diễn tả của loài người) ban cho Đức Pháp Tạng (Phật Trung Chi Vương) hiểu biết về muôn nẻo vũ trụ trời đất, và Phật Pháp Tạng Tu và Hóa thân vào trong Vũ trụ trời đất để tạo ra một cõi Cực Lạc. Mà ở đây tất cả đều miễn nhiễm với các cửa ác, có thể tu thành Phật và được Giải thoát hoàn toàn. Để vào được cõi cực lạc này người ta chỉ cần kêu cầu hồng danh của Phật A-diDi-đàĐà lúc lìa đời thì, Phật A-diDi-đàĐà sẽ đến tiếp dẫn vào cõi Cực lạcLạc để tu thành Phật.<ref>Việt dịch: HT. Thích Đức Niệm & Cư sĩ Minh Chánh<nowiki/>https://thuvienhoasen.org/a15649/kinh-vo-luong-tho</ref>
 
Giáo lý cũng nhấn mạnh rằng,chỉ cần biết ăn năn sám hối từ bỏ tội lỗi, kêu đến danh Phật A-diDi-đàĐà khi lâm chung, Phật A-diDi-đàĐà sẽ đến đưa vào cõi Cực lạcLạc thánh thiện của Phật A-diDi-đàĐà để tiếp tục tu thành Phật. Dù cho tội có nhiều đến đâu đi nữa. Tuy vậy, giáo lý cũng nói, để vào được cõi phậtPhật của Ngài chắc chắn, thì nên thực hành niệm phậtPhật mỗi dâyGiây mỗi phút, để khi lâm chung có thể kịp thời kêu cầu danh Phật A-diDi-đàĐà, việc thực hành tụng niệm phải liên tục từng giây từng phút trong tâm niệm từ bỏ tội lỗi, ăn năn sám hối...quyết tâm làm điều lành liên tục mọi ngày mọi giây phút thì đến lúc chết mới dễ dàng kêu khấn danh Phật A-diDi-đàĐà.
 
Ý Nghĩa giáo lý
Dòng 74:
Phật: là Giác
 
Bản thân chữ A Di Đà Ngoài việc danh xưng của Phật Pháp Tạng (Phật Trung Chi Vương).Theo giáo lý thì từ này ý nghĩa sâu xa,ngoài việc là tên của Phật, còn có ý nghĩa nhắc người tụng niệm ý thức thân phận yếu hèn của mình, dựa vào thần lực của phậtPhật để vượt thắng tội lỗi và yếu đuối của bản thân nhằm đứng vững đế đến lúc chết được Phật A Di đàĐà đón vào cõi Cực Lạc tiếp tục tu đạo để được giải thoát.
 
Người tin vào pháp môn Tịnh độĐộ (nhận trợ lực của Phật A Di Đà để tái sinh vào cực lạc tiếp tục tu thành Phật) chiếm chủ yếu ở các nước Đông Á. Còn ở Nam á và Ấn độ niềm tin tự tu tự giải thoát không Phật thánh nào giúp được ta phổ biến hơn. Có lẽ, do các nước Nam Á có truyền thống tu thiền phổ biến hơn.
 
== Nguồn gốc về mặt lịch sử của Phật A Di Đà ==
Phật A Di Đà lần đầu tiên được nhắc đến trong Kinh Vô Lượng thọThọ, được cho là được Phật Thích ca Thuyết khi còn tại thế. Tuy vậy các bằng chứng khảo cổ chỉ tìm thấy kinh vô lượng và các ghi chép về Phật A Di Đà vào khoảng thế kỷ 1 trước công nguyên. Nên nảy sinh nhiều tranh cãi về Nguồn gốc của niềm tin này<ref name=":1">On the origins of Mahayana Buddhism" (PDF). Archived from the original (PDF) on 2013-06-12. Truy cập https://web.archive.org/web/20130612150915/http://old.ykbi.edu.tw/htm/ykbi16/ykbi16_1.pdf</ref>
 
Phần giải thích lịch sử nguồn gốc về niềm tin A Di Đà được trích ở bách khoa toàn thư Việt Nam cho rằng truyền thống đức tin vào phật A Di Đà là 1 sản phẩm của học giả Phật giáo của thế kỷ thứ 1 trước công nguyên, do đó không có cơ sở nào chứng minh được có thật sự là đức Thích Ca có thật sự nói về Phật A Di Đà hay không, hay phật A Di Đà chỉ là một sản phẩm của học giả.<ref name=":1" />
 
Tuy vậy cũng cần phải xét rằng, các lý luận này chỉ dựa vào bằng chứng khảo cổ của học giả thôi, giả sử trong tương lai người ta tìm thấy bằng chứng khảo cổ rằng vô lượng kinh đã được tìm thấy ở niên đại TK 5 trước công Nguyênnguyên phù hợp với lần kết tập thứ nhất sau khi đức Thích Ca vãn sinh thì có lẽ mọi tranh cãi của học giả sẽ thành vô nghĩa.Một số học giả theo truyền thống đã coi các kinh điển Đại thừa sớm nhất bao gồm các phiên bản đầu tiên của loạt Prajñāpāramitā, cùng với các văn bản liên quan đến Akshobhya, có lẽ được sáng tác vào thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên ở phía nam Ấn Độ. Một số kinh điển đầu tiên của Đại thừa đã được dịch bởi nhà sư Kushan, Lokakṣema, người đã đến Trung Quốc từ vương quốc Gandhāra. Bản dịch đầu tiên của ông sang tiếng Trung Quốc được thực hiện tại thủ đô Luoyang của Đông Hán trong khoảng từ 178 đến 189 CE. Một số kinh điển Đại thừa được dịch trong thế kỷ thứ 2.
 
Do đó, các học giả thường nghĩ rằng kinh điển Đại thừa sớm nhất chủ yếu được sáng tác ở miền nam Ấn Độ, và sau đó hoạt động viết kinh sách bổ sung được tiếp tục ở phía bắc. Tuy nhiên, giả định rằng sự hiện diện của một niềm tin nền tảng được chấp nhận rộng rãi từ xa xưa từ thời Phật thíchThích caCa tại thế đã góp phần phát triển của kinh điển Đại thừa cũng là hợp lý. Thì những ngụ ý về Phật A Di đà, kinh vô lượng thọ Phật giáo đại Thừa được các học giả vẽ ra cho hợp thời, có thể sai.<ref>Orsborn, Matthew Bryan. “Chiasmus in the Early Prajñāpāramitā: Literary Parallelism Connecting Criticism & Hermeneutics in an Early Mahāyāna Sūtra”, University of Hong Kong, 2012, page 201.</ref>
 
==Chú thích==