Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lễ cưới người Việt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
Lịch sử{{Văn hóa Việt Nam}}Trong đời sống [[hôn nhân|hôn lễ]] của người [[Việt Nam]], khi trainam gáinữ kết [[hôn nhân|lấy]] nhau, [[người Việt]] gọi là '''đám cưới''', '''lễ cưới''' hoặc gọn hơntục là '''cưới''', gọi theo [[từ Hán-Việt|tiếng Hán-Việt]] là '''giá thú'''.<ref>Giải nghĩa: Giá là lấy vợ, thú là lấy chồng</ref> Đối với người Việt, [[lễ cưới|hôn lễ]] là một trong bốn nghi lễ quan trọng<ref>Bốn nghi lễ đó là: ''quan, hôn, tang, tế'' đã được [[Hồ Sỹ Tân]], hiệu [[Thọ Mai]] người làng Hoàn Hậu, huyện [[Quỳnh Lưu]], [[Nghệ An]], đậu [[Tiến sĩ]] năm 1721 viết thành cuốn "Thọ mai gia lễ"</ref> và được xã hội quan tâm nhiều hơn cả.
 
== Phong tục và lễ nghi truyền thống ==
{{xem thêm|Thuật ngữ cưới hỏi người Việt}}
[[Tập tin:Cố bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên và vợ.jpg|nhỏ|360x360px|ĐámHôn cướilễ của cố bộ trưởng [[Nguyễn Văn Huyên]] và bà Vi Kim Ngọc năm 1936.dâu mặc [[áo nhật bình|nhật bình]], chú rể mặc [[áo ngũ thân]] chẽn và [[khăn vấn]]. ]]
[[Tập tin:Đám cưới chuột.JPG|nhỏ|Tranh dân gian [[Tranh Đông Hồ|Đông Hồ]]: Đám cưới chuột|240x240px]]
=== Quan niệm về hôn nhân ===
Thời phong kiến, theo luân lý "tam cương ngũ thường", con cái mà còn cha mẹ khi nào cũng ở địa vị phụ thuộc, việc hôn nhân của con cái cha mẹ có quyền độc đoán và "đặt đâu ngồi đấy". Nếu con cái không bằng lòng với người vợ (hay chồng) mà cha mẹ chỉ định thì chỉ có cách bỏ nhà ra đi. Chính sự không cần biết ái tình của con cái, chỉ cốt tìm được nơi "môn đăng hộ đối" là cha mẹ nhờ "mối lái" điều đình để đính hôn nên đã xảy ra tệ tảo hôn<ref>Tảo hôn: đính ước hôn nhân khi con cái còn trẻ dại</ref> và tục phúc hôn.<ref>Phúc hôn: khi đứa trẻ còn trong bụng, chưa biết trai hay gái mà cha mẹ đã ước hôn, hứa hôn</ref>
 
NgườiMục xưađích quan niệm mục đíchkết hôn nhân cốt duy trì gia thống cho nên việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải việc riêng của con cái. Bởi vậy định vợ gả chồng cho con là quyền quyết định của cha mẹ. Nghĩa vụ của mỗi người đối với tổ tiên, dòng họ là phải truyền giống về sau để "vĩnh truyền tông tộc", do đó luân lý cho người "vô hậu" là phạm điều bất hiếu rất lớn.<ref>[[Mạnh Tử]] viết: ''Bất hiếu giả tam, vô hậu vi đại''</ref> Việc hôn nhân không những chỉ có nguyên nhân huyết thống mà cònCòn có nguyên nhân kinh tế. Người vợ không những phải sinh con đẻ cái nối dõi tông đường mà,dâu còn phảilo làmnội lụng và coi sóc việc nhàsự cho gia đình nhà chồng.
 
Chế độ "đa thê, đa thiếp" cho phép đàn ông được phép có nhiều vợ<ref>Ngoại trừ phò mã chỉ được phép lấy 1 vợ</ref> mà không phảivợ lớn không sinh conchính haythất正室 chỉ sinh con gái. Nạp thiếp (còn gọi là vợ lẽ, vợthể hai,do vợchính ba, nàng hầu...) không cần tổ chức lễ cưới<ref>Ngoại trừ Hoàng tử, nếuthất muốn cướitìm nàngcho hầuphu thìquân nghi1 lễngười cũngthiếp phảiphù tiếnhợp hànhđể tươnggiúp tựđỡ cướinội vợsự chính</ref>gia và vì ngườitộc.Nạp thiếp không(còn phảigọimộtKế phầnThất繼室,Trắc tửThất測室,Thứ trọngThê次妻,di yếuthái trongthái,tiểu...) giavẫn đìnhcần nêntổ chồngchức hayhôn vợ lớn muốn đuổi khi nào cũng được.lễ<ref>''Việt Nam văn hóa sử cương'', tác giả [[Đào Duy Anh]], Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, xuất bản 2006, trang 118-120</ref>
 
=== Lễ nghi dân gian ===
Trước đây (và cả bây giờ) người Việt gọi lễ cưới là hôn lễ. Theo giải thích của [[Đào Duy Anh]], chữ "hôn" nguyên nghĩa là chiều hôm, theo lễ tục xưacổ ngườilàm ta làmhôn lễ cưới vào buổi chiều tối.<ref>Buổi chiều tối là lúc dương qua âm lại, âm dương giao hoán với nhau được thuần, cho nên dùng giờ này để làm hôn lễ, tức là thuận theo lẽ tuần hoàn của trời đất, sđd, trang 205</ref>
 
Hôn lễ của người Việt có 6 lễ:
Dân gian coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người (sự nghiệp, làm nhà và cưới vợ) khi nhấn mạnh trong câu ca dao: "tậu trâu cưới vợ làm nhà..."
 
Ảnh hưởng [[văn hóa]] [[Trung Quốc]], hôn nhân của người Việt xưa có sáu lễ chính. Để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ chính sau:
* '''Lễ nạp tài''': sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
* '''Lễ vấn danh''': là lễ do nhà trairể sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻnhật của người con gái.dâu
* '''Lễ nạp cát''': lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
* '''Lễ nạp tệ''' (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
* '''Lễ thỉnh kỳ''': là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức (lễ cưới.)
* '''Lễ thân nghinh''' (tức lễ rước dâu hayhoặc lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trairể mang lễ đến để rước dâu về.
 
==== Lễ cưới dân gian ====
[[Tập tin:Cortège d'un mariage - Cochinchine 1866. Photo d'Emile Gsell.jpg|thumb|trái|ĐámHôn cướilễ tại Sài Gòn, hình chụp khoảng 1866]]
[[Tập tin:Annamese wedding.jpg|nhỏ|trái|Lễ thân nghinh(rước dâu) tại miền Trung vào đầu thế kỷ 20.]]
 
Khi nhà trairể xin cưới và nếu nhà gáidâu thuận thì trả lời cho ông bà mai. Sự trả lời này còn bao gồm việc thách cướilễ, nghĩa là nhà gáidâu đòi nhà trairể trong lễ đón'''thân dâunghinh''' phải có những đồ lễ gì, bao nhiêu. Thách cưới, nhà gái thường đòi với số lượng lớn, yêu cầu thường là rượu, trầu cau, trà, bánh tráiquả, gạo, heo, đồ trang sức, y phục cho dâu và tiền mặt <ref>Do chuyện thách cưới lớn, nhà trai đòi giảm giá giống như mặc cả trong cuộc mua bán một món đồ vật, cho nên mới có từ "gả bán"</ref>.
 
Đúng ngày cướihôn lễ, người ta chọn giờ "hoàng đạo" mới đi,chiều.Dẫn thườngđầu đám vềrước chiều,chủ tế nơi đi1 vàocao chậpniên tối.mặc Dẫnđạo đầubào,đội đámbình rướcđính đàngmạo(1 trailoại một cụcân-mũ giàlông nhiều tuổiđuôi ngựa),được dânthôn làng kính nểtrọng tuổi tác, tư cách, địa vị xã hội, đóng vailàm chủ hôn.
 
Ở [[miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc Bộ Việt Nam]] ngày xưa, tại nhà trai, người ta chờ đợi đám rước dâu vềrể. Một1 quả lò than đốt hồng đặt trước ngưỡng cửa để chờ dâu với nghĩa: lửa hồng sẽ đốt hết những tà ma theo ám dâu và sẽ đốt vía của tất cả những kẻ độc mồm độc miệng đã quở mắng dâu dọc đường.
 
Sau dâukhi vàoDâu bái gia tiên nhàchủ chồng xongtế,gia ôngđình chủ cũng như cha mẹ chồngtế tặng cho dâu món quà, thường là tiền hoặc là đồ nữ trang.,Giao điêu交刁(kiềng)
 
Lễ tơ hồng được cử hành rất đơn giản. Bàn thờ thiết lập ngoài trời, bày lư hương và nến hay đèn, tế vật dùng xôi, gà, trầu, rượu.
 
Hai2 ngày sau hôn lễ cưới,phu vợ chồng đưa nhau vềphụ thăm chathê mẹgia(nhà vợdâu) với một số lễ vật, tùy theo tập tục địa phương bên vợ. Xưa lễLễ này gọi là "Nhị hỷ". Nếu nhà chồng ởrể cách xa quá, không về được trong hai ngày thì có thể để bốn4 ngày sau mới về, gọi là "Tứ hỷ".
 
Theo tục lệ vợphu chồngphụ đem lễ chay hoặc lễ mặn về nhà để cúng gia tiên, để trình bày với gia tiên và cha mẹ, cùng họ hàng việc cưới đã xong xuôi toàn mãn.
 
=== Pháp chế ===
Hàng 50 ⟶ 48:
=== Lễ nghi cung đình ===
[[Tập tin:Une cérémonie de mariage au Tonkin.jpg|nhỏ|phải|Hình vẽ lễ gia tiên tại Lễ cưới Trung Kỳ năm 1894|241x241px]]
Lễ cưới trong giới quý tộc, quan lại ở các triều đại phong kiến nhìn chung giống với tục cưới gả của [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] là căn cứ vào sáu bước (lục lễ), có thể rút bớt hay kết hợp nhưng được sắp đặt cầu kỳ, tỷ mỉ, trang trọng và xa hoa hơn trong dân gian. Việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do cha mẹ chủ trương và theo lối "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". [[Hoàng tử]] lấy vợ chính gọithất là "nạp phi" và "nạp thiếp" khi lấy vợ thứ thất(khi về nhà chồng,dâu được gọi là phủ phi hay phủ thiếp), và [[công chúa]] lấyxuất chồng gọigiá là "hạ giá" (chúchủ rểtế được phong Phò mã Đô uý).
 
==== Hoàng tử nạp phi ====
Hoàng tử khi đến 15-18 tuổi sẽ được phong tước, cấp đất và tiền để lập phủ riêng, sau đó vua mới nghĩ đến việc cưới vợ cho con. Cô dâu dohoàng chínhđế vuatuyển kénvương chọnphi qua việc dò hỏi các vị đại thần, ai muốn gả con gái đến tuổi cho hoàngái tửnữ. Khi có vị nhận lời,hoàng vuađế mớisẽ chuẩn bị hôn lễ. Theo "Nghị định" năm [[Gia Long]] thứ 7 ([[1808]]), hôn lễ được cử hành qua các bướclễ:
* '''Truyền mệnh''': vuaHoàng đế cử hai2 đại thần lãnh cờ tiết đến nhà gáiphi thông báo, đúng ngày đã định, cha mẹ của gáiphi vào cung nhận mệnh, sau đó Khâm Thiên giám chọnđịnh ngày tốt để tiến hànhkết hôn lễ.
* '''Nạp thái''': trước ngày nạp lễ, có một buổi thiết triều ở điện Cần Chánh để vua truyền cho biết ngày giờ hôn lễ và cử các quan vào trong ban phụ trách việc hôn lễ này. Hai quan đại thần và một số người khác vài mệnh phụ, quân lính bưng tráp thiếp và lễ vật đến nhà gái. Lễ vật được đặt sẵn trên các án sơn son thếp vàng bao gồm: vàng, bạc, gấm, lụa, nữ trang, trầu, cau, trâu, bò, lợn, rượu. Hòm thiếp đựng giấy ghi danh sách, số lượng vật phẩm và ngày giờ cử hành các lễ tiếp theo.
* '''Nạp trưng''': Theo ngày tốt đã chọn, nghi thức được tiến hành. Lần này, ngoài những vật phẩm như trên còn có mũ áo, xiêm, hài, kiệu, lọng và "tờ sách vàng" khắc bài dụ của vua. Một nữ quan đọc tờ sách, cô dâu ngồi vào ghế để nhận lạy mừng của mọi người. Lễ xong, một bữa tiệc được nhà gái bày ra để khoản đãi những người tham dự, sau đó rước cô dâu về phủ của hoàng tử. Hai đại thần về điện nạp cờ tiết phục mệnh. Hôm sau, cha mẹ của cô dâu phải vào cung để làm lễ tạ ơn (ông đến tiện điện và bà đến điện Khôn Đức).
Hàng 77 ⟶ 75:
== Phong tục và lễ nghi ngày nay ==
{|
|[[Tập tin:Phong nen dam cuoi.JPG|nhỏ|trái|180px|Một phông nền trang trí đám cưới người Việt]]||[[Tập tin:DonNguyễn dautrào vehôn nhalễ trai- Nghinh thân.JPG|nhỏjpg|trái|200pxnhỏ|Đón dâu]]236x236px||[[TậpLễ tin:VNesenghinh countrythân wedding.jpg|nhỏ|trái|200px|Traocủa kết hôn truyền nhẫnthống]]||[[Tập tin:Trau cau (Vietnam).JPG|nhỏ|90px|trái|Mâm [[trầu]] [[cau]]]]||[[Tập tin:Bánh phu thê.jpg|nhỏ|90px|[[Bánh phu thê]]]]
|}
Nhà nước phong kiến Việt Nam, triều đại [[nhà Nguyễn]] chấm dứt sau [[Cách mạng tháng Tám]] ([[1945]]), cùng với sự hình thành của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], đã có quy định như sau về hôn nhân:
Hàng 110 ⟶ 108:
[[Tập tin:Lễgiatiên.JPG|nhỏ|phải|Lễ gia tiên tại nhà trai]]
[[Tập tin:Phong cuoi.JPG|nhỏ|phải|Ảnh phòng cưới]]
[[Tập tin:Nguyễn trào hôn lễ - NGUYỄN VŨ HẢI ĐĂNG.jpg|thế=|nhỏ|Trang phục truyền thống trong hôn lễ Việt Nam(sau năm 1945)thời Nguyễn do các bạn trẻ nghiên cứu phục dựng]]
[[Tập tin:Thaiquoc-ngockieu.jpg|nhỏ|Áo dài cưới và [[khăn đóng]]|thế=]]
[[Tập tin:HaNguyễn Coctrào Sceneryhôn lễ - Nạp thái.jpg|nhỏ|ÁoLễ Nạp thái dàicủa cướikết vớihôn 2truyền lớpthống]]
* '''Lễ nạp tài''': Là ngày nhà trai đem sính lễ sang nhà gái để đón dâu (như ở dưới sẽ nêu). Ý nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp phần với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết mọi thứ đã chuẩn bị sẵn. Với đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn (bố mẹ chồng sẽ trao lúc làm lễ ở nhà gái trước đông đủ quan viên được mời - nội ngoại nhà gái), cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.
* '''Lễ xin dâu''': Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu đã đến.