Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triều Konbaung”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 93:
Mindon Min cũng cố gắng giảm gánh nặng thuế bằng cách giảm [[thuế thu nhập]] cao và tạo ra một loại [[thuế tài sản]], cũng như thuế hải quan đối với hàng xuất khẩu sang nước ngoài. Những chính sách này có tác động ngược lại vì nó làm tăng thêm thuế, quan chức địa phương tận dụng cơ hội để ban hành các loại thuế mới mà không xóa bỏ, giảm các mức thuế cũ; quan chức địa phương có thể làm như vậy vì sự kiểm soát từ trung ương rất yếu. Ngoài ra, thuế đối với hàng xuất khẩu nước ngoài cũng đã kìm hãm thương mại và thương nghiệp đang phát triển.
 
Các vị vua Konbaung đã mở rộng các cải cách bắt đầu từ thời kỳ Vương triều Toungoo được Phục vị (1599–1752), và đạt được mức độ kiểm soát trong nước, giữ ổn định và mở rộng ra bên ngoài chưa từng có. Triều Konbaung thắt chặt quyền kiểm soát ở các vùng đất thấp và giảm bớt các đặc quyền cha truyền con nối của các [[Chao Pha|tù trưởng]] [[người Shan|Shan]]. Đồng thời cũng tiến hành các cải cách thương mại nhằm tăng thu nhập của chínhtriều quyềnđình và khiến ngân khô tăng nhiều hơn. Kinh tế tiền tệ tiếp tục tăng trưởng. Năm 1857, vua Mindon Min đã ban hành một hệ thống chính thức về thuế và lương bổng, được hỗ trợ bởi tiền đúc bằng bạc theo tiêu chuẩn đầu tiên của Miến Điện.
 
Tuy nhiên, mức độ và tốc độ của các cuộc cải cách không đồng đều và cuối cùng được chứng minh là không đủ để ngăn chặn bước tiến của chủ nghĩa [[thực dân Anh]].
Dòng 118:
 
Mặc dù vương triều đã chinh phạt những vùng lãnh thổ rộng lớn, nhưng quyền lực trực tiếp của Konbaung chỉ giới hạn ở kinh đô và những vùng đồng bằng màu mỡ của thung lũng Irrawaddy. Những vị vua Konbaung ban hành các loại thuế hà khắc và gặp nhiều khó khăn trong việc chống lại các cuộc nổi loạn trong nước. Vào nhiều thời điểm khác nhau, [[người Shan|Shan]] đã cống nạp cho Vương triều Konbaung, nhưng không giống như các vùng đất Mon, không bao giờ bị kiểm soát trực tiếp bởi người Miến Điện.
==ChínhTriều quyềnđình==
Vương triều Konbaung là một chế độ [[quân chủ chuyên chế]]. Cũng như một số nước trong Đông Nam Á, khái niệm truyền thống về vương quyền đã hướng tới [[Chakravartin]] (Quân chủ quyền năng) tạo ra [[hệ thống mandala]] hoặc vùng đất quyền năng trong vũ trụ [[Jambudipa]] (Nam Thiệm Bộ Châu) của riêng mình, cùng với việc sở hữu voi trắng cho phép họ nhận danh hiệu ''Hsinbyushin'' hay ''Hsinbyumyashin'' (Chúa tể của những con voi trắng), đã đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của Konbaung. Trên thực tế là mối đe dọa các cuộc đột kích định kỳ và hỗ trợ các cuộc nổi loạn cũng như sự xâm lược và áp đặt quyền thống trị tới các vương quốc láng giềng Mon, Tai Shans và Manipuris.
===Phân cấp hành chính===
Vương quốc được chia thành các tỉnh gọi là ''myo'' (မြို့). Các tỉnh này được quản lý bởi ''Myosa'' (မြို့စား), là thành viên của gia đình hoàng gia hoặc các quan chức cấp cao nhất của [[Hluttaw]]. Họ thu thuế cho chínhtriều quyềnđình hoàng gia, trả cho ''Shwedaik'' (Ngân khố Hoàng gia) theo từng đợt cố định và giữ lại bất cứ thứ gì còn sót lại. Mỗi myo được chia thành các huyện gọi là ''taik'' (တိုက်), bao gồm các tập hợp các làng được gọi là ''ywa'' (ရွာ).
 
Các tỉnh ven biển ngoại vi của vương quốc ([[Pegu]], [[Tenasserim]], [[Martaban]] và [[Arakan]]) được quản lý bởi một Tổng trấn gọi là ''Myowun'', người được nhà vua bổ nhiệm và sở hữu các quyền lực dân sự, xét xử, biện lý và quân sự. Các hội đồng cấp tỉnh (myoyon) bao gồm ''myo saye'' (thư lại thị trấn), ''nakhandaw'' (thụ mệnh giả hoàng gia), ''sitke'' (thủ lĩnh chiến tranh), ''htaunghmu'' (cai ngục), ''ayatgaung'' (quản hạt) và ''dagahmu'' (khán môn nhân). Mỗi tỉnh được chia thành các huyện gọi là myo, mỗi huyện do một ''myo ok'' (nếu được bổ nhiệm), hoặc bởi ''myo thugyi'' (nếu là cha truyền con nối). Tổng trấn Pegu được hỗ trợ bởi một số quan chức bổ sung, bao gồm ''akhunwun'' (thuế sứ), ''akaukwun'' (khố sứ) và ''yewun'' (thủ cảng sứ).
Dòng 127:
Các lãnh địa triều cống xa xôi ở rìa vương quốc trên thực tế có quyền tự trị và do nhà vua quản lý trên danh nghĩa. Những nhóm này bao gồm người nói tiếng Tai (nơi đã trở thành bang Shan trong thời kỳ cai trị của Anh), các vương quốc Palaung, Kachin và Manipuri. Các thân vương triều cống của những vương quốc này thường xuyên cam kết trung thành và cống nạp cho các vị vua Konbaung (thông qua các nghi lễ gọi là ''[[gadaw pwedaw]]'') và được ban cho các đặc quyền của hoàng gia và được chỉ định là ''[[sawbwa]]'' (từ Shan saopha, 'chúa tể của bầu trời'). Đặc biệt, các gia đình Shan sawbwas thường xuyên kết hôn với tầng lớp quý tộc Miến Điện và có quan hệ mật thiết với triều đình Konbaung.
===Cơ quan hoàng gia===
Triều đình được quản lý tập trung bởi một số cơ quan cơ mật của hoàng gia, theo mô hình đã được thiết lập trong vương triều Taungoo.
 
Hluttaw (လွှတ်တော်, "triều đình") giữ các chức năng lập pháp, quản lý xét xử, quản lý hoàng gia theo sự ủy quyền của quốc vương. Các phiên họp tại Hluttaw được tổ chức 6 giờ sáng hàng ngày, thường kéo dài từ 6 đến 9 giờ sáng và từ trưa đến 3 giờ chiều. Danh sách theo thứ hạng, Hluttaw bao gồm:
* Đứng đầu triều đình - quốc vương, thái tử, thân vương cấp cao, đứng đầu Hluttaw với tư cách là người đứng đầu danh nghĩa.
* [[Wunshindaw]] (ဝန်ရှင်တော်, Tể tướng) - từng là Thừa tướng Hluttaw, một chức vụ được lập dưới thời trị vì của Mindon Min và đáng chú ý nhất là Kinwun Mingyi U Kaung
* Bốn Wungyi (ဝန်ကြီး, Thượng thư) - quản lý các vấn đề quản lý chính sự của Hluttaw
** Bốn Wundauk (ဝန်ထောက်, Thị lang) - chức vụ phó của Wungyi
* Myinzugyi Wun (မြင်ဇူးကြီးဝန်, Thượng thư Binh mã) - là chức vụ cao nhất quản lý quân đội trung ương, giám sát Tatmadaw.
* Athi Wun (အသည်ဝန်, Thượng thư Athi) - chịu trách nhiệm phân bổ nguồn lao động và huy động những người dân thường đóng thuế, được gọi là athi, trong thời chiến
 
[[Byedaik]] (ဗြဲတိုက်, "viện học sĩ") chức năng như là Viện Cơ mật xử lý các công việc nội bộ của triều đình và cũng là người đối thoại giữa nhà vua và các cơ quan hoàng gia khác. Byedaik bao gồm:
* Tám Atwinwun (အတွင်းဝန်, Thượng thư nội vụ)- thông báo các công việc thương mại của Hluttaw cho nhà vua, điều hành các giao dịch nội bộ về các công việc chung liên quan đến triều đình
* Thandawzin (သံတော်ဆင့်, Hàn lâm học sĩ) - thực hiện các nhiệm vụ thư ký và tham dự các buổi yết kiến ​​của nhà vua để ghi chép sắc chỉ của nhà vua và chuyển chúng đến Hluttaw để tuyên cáo
* Simihtunhmu (ဆီမီးထွန်းမှူး, Tổng quản nội vụ) - giữ danh sách tất cả những người ngủ trong cung điện
* Hteindeinyanhmu (ထိန်းသိမ်းရေးမှူး, Quản vụ Hoàng cung) - thực hiện các công việc liên quan đến vật dụng hoàng cung.
 
Shwedaik (ရွှေတိုက်) là Ngân khố Hoàng gia, đóng vai trò là kho chứa kim loại quý và kho báu của nhà nước. Hơn nữa, Shwedaik còn lưu giữ kho lưu trữ của nhà nước và duy trì nhiều tài liệu khác nhau, bao gồm gia phả chi tiết của các quan chức cha truyền con nối và các báo cáo điều tra dân số. Shwedaik bao gồm:
* Shwedaik Wun (ရွှေတိုက်ဝန်) - Thượng thư tài chính
* Shwedaik Saw (ရွှေတိုက်စော) - Thống sứ ngân khố
* Shwedaik Kyat (ရွှေတိုက်ကြပ်) - Quản sự ngân khố
* Shwedaik Saye (ရွှေတိုက်စာရေး) - Thư lại ngân khố
* Shwedaik Thawkaing (ရွှေတိုက်သော့ကိုင်) - Thủ vệ ngân khố
===Cơ quan nội chính hoàng gia===
Mỗi cơ quan hoàng gia bao gồm một đoàn tùy tùng lớn gồm các quan chức cấp trung và cấp thấp chịu trách nhiệm về các công việc hàng ngày. Chúng bao gồm:
* Nakhandaw (နားခံတော် Tổng vụ) - chịu trách nhiệm truyền đạt thông tin liên lạc đến và đi từ Vua và Hluttaw. Cũng đóng vai trò trung gian giữa các cơ quan hoàng gia và giữa vua và các thượng thư. Báo cáo thu thập, sắp xếp, giải thích, đọc tuyên ngôn tại các cuộc họp chính thức, chuyển lệnh cho các hội đồng cấp tỉnh
== Danh sách các vua Triều Konbaung ==
[[Tập tin:Amarapura palace British Embassy Michael Symes 1795.jpg|nhỏ|trái|Cung điện ở [[Amarapura]], năm 1795]]