Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Doãn (họ)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 24:
*Doãn Thuấn Thần (尹舜臣<ref>[https://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/101/page/117 Ức Trai di tập, quyển 6, [[Dư địa chí]], bản chữ Hán, [[Nguyễn Trãi]], trang 30-31.]</ref>,?-?), được [[Trần Dụ Tông]] cử đi sứ nhà Minh năm [[1368]] ngay sau khi [[nhà Minh]] lập quốc, để đáp lễ chuyến thiết lập bang giao của sứ thần Dịch Tế Dân do [[Minh Thái Tổ]] (Chu Nguyên Chương) cử sang Đại Việt. Vua nhà Minh hỏi về quốc sử và úy lạo sứ thần Doãn Thuấn Thần, khen tặng phong tục Đại Việt là: 文獻之邦 (Văn hiến chi bang, đất nước văn hiến)<ref>Nguyễn Trãi toàn tập, phần Địa dư chí, trang 243, nhà xuất bản Khoa học Xã hội (1976)</ref><ref>[http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/story/2007/09/printable/070920_vanhien_vietnam.shtml Ai đã gọi Việt Nam là nước văn hiến? BBC tiếng Việt, Phạm Cao Dương, 20 Tháng 9 năm 2007.]</ref><ref>[http://huc.edu.vn/vi/spct/id199/NGHIA-TU-NGUYEN-CUA-TU-VAN-HIEN--QUA-BOI-CANH-TRI-THUC-NHO-GIAO-VIET-NAM---TRUNG-HOA/ Nghĩa từ nguyên của từ “Văn hiến” qua bối cảnh tri thức nho giáo Việt Nam-Trung Hoa, Trần Trọng Dương]</ref>, kèm ngự ban bài thơ: 安南際有陳, 風俗不元人, 衣冠周制度, 禮樂宋君臣。An Nam tế hữu Trần, Phong tục bất [[Đế quốc Mông Cổ|Nguyên nhân]], Y quan [[nhà Chu|Chu]] chế độ, Lễ nhạc Tống quân thần. ([[An Nam]] lân bang có [[nhà Trần]], Phong tục chẳng như người [[nhà Nguyên|Nguyên]], [[Ngàn năm áo mũ|Mũ áo]] vẫn giống nhà Chu, Lễ nhạc như vua tôi [[nhà Tống]].)
* [[Doãn Nỗ]] 尹弩 (Lê Nỗ 黎弩) ([[1393]]-[[1439]]), quê Cổ Định [[Thanh Hóa]], (thời Lê sơ, triều [[Lê Thái Tổ|Lê Lợi]]), Trụ quốc công thượng tướng quân, được phong tước Quang Phục [[hầu]], tham gia [[Khởi nghĩa Lam Sơn]], một Khai quốc công thần nhà Lê. Doãn Nỗ là cháu 4 đời của Doãn Bang Hiến.
* [[Doãn Hoành Tuấn]] hay [[Doãn Hoằng Tuấn]] 尹宏濬<ref>[http://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/264/page/33 Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 23 bản chữ Hán, Lê Thánh Tông, trang 33.]</ref>, (Khâm định Việt sử thông giám cương mục bản dịch quốc ngữ chép là Doãn Hoành Tấn) (?-?), (thời Lê sơ, triều [[Lê Thánh Tông]]), đỗ [[Đồng tiến sĩ xuất thân|Đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân]] năm [[1478]]<ref>[http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=564 Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478)]</ref>, [[Thượng thư]] [[bộ Lễ]], đi sứ [[nhà Minh]] năm 1480 mang thư trả lời nhà Minh của vua Lê về việc [[Đại Việt]] [[chiến tranh Đại Việt - Lan Xang (1467-1480)|chinh phạt]] [[Ai Lao]] và tranh chấp biên giới Đại Việt-Đại Minh năm 1479.<ref>Việt sử thông giám cương mục, chính biên, tập XII trang 1155-1157, tức chính biên quyển 23 trang 25-27</ref><ref>[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt18a.html Đại Việt sử ký Bản kỷ thực lục - quyển XIII - nhà Lê]</ref>, quê An Duyên xã [[Tô Hiệu, Thường Tín|Tô Hiệu]] huyện [[Thường Tín]] tỉnh [[Hà Tây]] (nay thuộc Hà Nội). Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “[...] công văn kể hết tình trạng đánh cướp (của quân nhà Minh) từ đầu đến cuối, nhân tiện kỳ (sứ thần Đại Việt đi sứ), đem trình lên [[tổng đốc Lưỡng Quảng]] tra khám xét hỏi. Gặp lúc đó, [[hoàng đế nhà Minh]] có sắc văn (gửi sang Đại Việt) nói rằng: ''Gần đây, được tin viên trấn thủ [[Vân Nam]] tâu rằng quốc vương An Nam vô cớ tự tiện điều binh mã đánh phá nước [[Lão Qua]], rồi đánh tiếp nước Bát Bá Tức Phụ. Nếu (vua [[An Nam]]) từng làm như thế trước đây, thì hãy rút quân ngay!'' Vua ([[Lê Thánh Tông]]) đem sắc văn đó ra cho đình thần xem. [[Lê Thọ Vực]] bày cách rằng: ''Bây giờ nên dùng lời quyền biến đáp lại (vua nhà Minh) là vì có người ở [[Thăng Long|Đông Quan]] (nước tôi) chạy trốn sang Lão Qua, nên tôi tự sai binh lên biên cảnh truy bắt, chứ thực không liên quan gì đến Lão Qua và Bát Bá.'' (Vua Lê) bèn sai hàn lâm thị thư [[Lương Thế Vinh]] nghĩ ra soạn thành biểu văn phúc tấu đề cập tới việc tướng [[La Truyền]] phá (rào lũy biên giới), việc [[Lý Quảng Ninh]] bắt (phái viên triều đình Đại Việt) kể hết vào tờ tư. Rồi (vua Lê) sai các chính, phó sứ [[Nguyễn Văn Chất]], Doãn Hoành Tuấn, [[Vũ Duy Giáo]] theo lệ cống sứ hàng năm, (mang theo cả biểu văn phúc tấu), sang nhà Minh tùy từng khoản mà ứng đối.”
* [[Doãn Đình Tá]] 尹廷佐 hay Doãn Đình Tuấn 尹廷俊 (?-?), quê Cổ Định Thanh Hóa (nay thuộc thị trấn [[Nưa, Triệu Sơn|Nưa]] huyện [[Triệu Sơn]]), đõ đệ tam giáp [[đồng tiến sĩ xuất thân]] khoa [[Kỷ Mùi]] niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 ([[1499]]) thời vua [[Lê Hiến Tông]]<ref>[http://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/747/page/60 Doãn Đình Tá trong Đỉnh khiết Đại Việt Lịch triều Đăng khoa lục, quyển 1, trang 60, bản chụp kỹ thuật sốː 尹廷佐農貢古定人任至憲察使, Đệ tam Tiến sĩ (thứ 15) Doãn Đình Tá người Cổ Định huyện Nông Cống làm quan tới chức Hiến sát sứ.]</ref><ref>Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, Ngô Đức Thọ, trang 229.</ref>, làm quan Hiến sát sứ, hàm Thiếu bảo.
* [[Doãn Mậu Khôi]] 尹茂魁 (?-?), cháu (gọi bằng bác ruột và thừa tự) Doãn Hoành Tuấn, quê An Duyên Thường Tín Hà Tây, đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân năm [[1502]]<ref>[http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=564 Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502)]</ref>, Thượng thư bộ Lễ, tước Tường An hầu, tới thời Lê Uy Mục được cử đi sứ nhà Minh 1507 <ref>Doãn Mậu Khôi đi sứ sang [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]], mừng [[Minh Vũ Tông|Minh Võ Tông]] lên ngôi, tháng 11 năm [[1507]] ([http://www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/lichsu/kdvstgcm/kdvstgcm30.html Khâm định Việt sử thông giám cương mục]).</ref>, sau là Tả phủ tả Đô đốc trấn giữ xứ Hải Dương, sang triều nhà Mạc làm Thượng thư kiêm chưởng Hàn lâm viện<ref>[http://www.mactoc.com/newsdetail/814/cac-nha-khoa-bang-lien-quan-en-nha-mac-tiep-theo.aspx ''Các nhà khoa bảng triều Lê sơ làm quan triều Mạc'', phần 2, mục 768.Doãn Mậu Khôi (?-?), trang web Mạc tộc.]{{Liên kết hỏng|date=2021-03-06 |bot=InternetArchiveBot }}</ref>, hàm [[Tam thái|Thái bảo]], tước Hương Giang công, thọ 100 tuổi.