Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Đã bị lùi lại
Rendof (thảo luận | đóng góp)
Thẻ: Đã bị lùi lại
Dòng 50:
 
Hệ thống giáo dục Việt Nam được hiện đại hóa theo mô hình phương Tây do nhà nước đài thọ và kiểm soát<ref name="hoa" />. Bậc tiểu học đã đặt "''nền móng cho một hệ thống hợp lý và hiện đại''". Hệ thống này đã đưa vào chương trình giảng dạy các môn khoa học và kỹ thuật, mở ra cánh cửa văn chương và triết học ra ngoài khuôn khổ Khổng giáo, và đem đến kiến thức văn hóa và nghệ thuật phương Tây. Trên phương diện xã hội, giáo dục dành cho nữ sinh góp phần làm thay đổi vị thế của phụ nữ trong xã hội Việt Nam. Giáo dục cho con em các dân tộc thiểu số và hiện đại hóa trường chùa trong các xứ theo đạo Phật đều là những thành tích của nền giáo dục này. Di sản khác mà nền giáo dục thuộc địa để lại là sự tiếp nhận và "chiếm lĩnh" chữ quốc ngữ của người Việt. Chính việc sử dụng chữ quốc ngữ, vốn được tạo ra để truyền đạo Thiên chúa, vào mục đích giáo dục, giảng dạy dưới thời thuộc địa khiến cho nó trở nên thông dụng với đại chúng. Việc sử dụng chữ quốc ngữ một cách phổ biến và đại chúng khiến hình thành và phát triển một nền báo chí và một nền văn học chữ quốc ngữ sống động và phong phú. Có khoảng 10.000 đầu sách được xuất bản trong những năm 1923 – 1948. Năm 1946, chính phủ của Hồ Chí Minh đã sử dụng và phổ biến chữ quốc ngữ với mục tiêu xóa mù chữ, nâng cao dân trí và xem đó là ưu tiên hàng đầu.<ref name="phuong 1" />
==Hạn chế==
 
Chính sách giáo dục của chính quyền Pháp nhằm dụng ý là để chuyển hướng tư duy của đại chúng, xóa bỏ những ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, truyền bá văn minh Pháp nhằm đồng hóa người Việt; đồng thời đào tạo ra một tầng lớp công chức và chuyên viên phục vụ cho nền cai trị và công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp. Mối đe dọa đáng sợ cho chính quyền thực dân Pháp là [[Nho giáo]] qua các sách vở Hán văn, bởi Nho giáo cổ vũ lòng yêu nước chống ngoại xâm và khuyến khích giới trí thức quan tâm đến các vấn đề chính trị<ref>Cooper, Nicola. Trang 36.</ref>. Hơn nữa người Pháp rất khó chịu trước giới sĩ phu Nho học không ngừng đả kích chế độ thực dân, kích động sự bất mãn của dân chúng thậm chí lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Vì vậy người Pháp đã dồn nhiều nỗ lực vào việc cải biến nền giáo dục bản xứ: loại bỏ Nho học và cấm giảng dạy [[lịch sử]] Việt Nam, thay vào đó là các kiến thức khoa học phương Tây, văn chương và [[lịch sử Pháp]]. Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính được dùng trong trường học còn tiếng Việt và tiếng Hán chỉ là ngoại ngữ. Một chứng cứ khác là sách giáo khoa thời Pháp thuộc không dùng danh từ "Việt Nam" mà chỉ nhắc đến "Đông Pháp" và các xứ lệ thuộc. Các kỳ thi [[khoa bảng Việt Nam]] cũng bị loại bỏ, thay vào đó là các kì thi bằng tiếng Việt và tiếng Pháp phỏng theo các kì thi của Pháp. Triều đinh nhà Nguyễn cũng đồng tình với chính sách bãi bỏ Hán học của Pháp mà không xét đến hậu quả lâu dài là đạo đức xã hội xuống cấp, người Việt bị tách rời khỏi di sản học thuật của nước nhà tích lũy được trong mười thế kỷ, toàn xã hội mất phương hướng, mê loạn về giá trị. Học giả [[Trần Trọng Kim]] nhận định "''Xét ra cho kỹ, sự bỏ cũ theo mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không cần cấp, nhưng vì người mình nông nổi, không suy nghĩ cho chín, chưa gì đã đem phá hoại cả đi, thành thử cái xấu, cái dở của mình thì vị tất đã bỏ đi được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh túy đã giữ cho xã hội của ta được vững bền hàng mấy nghìn năm nay. Phàm người ta muốn bỏ cái cũ đã hẩm nát, tất là phải có cái mới tốt hơn, đẹp hơn để thay vào. Nay ta chưa có cái mới mà đã vội vàng bỏ cái cũ đi, thành ra đổ nát cả, mà không có cái gì thay vào được. Ấy là cái tình trạng nước ta ngày nay là thế, khác nào như chiếc thuyền đi ra giữa biển, đánh mất địa bàn chỉ nam, không biết phương hướng nào mà đi cho phải đường, cứ lênh đênh mãi, không khéo lại bị sóng gió va vào đá vỡ tan mất cả.''<ref>Nho giáo, Trần Trọng Kim, 1930</ref>".
[[Tập tin:1938 Vietnamese Birth Certificate in Nôm.jpg|nhỏ|phải|[[Giấy khai sinh]] của tỉnh [[Bắc Ninh]] thời Pháp thuộc tại Bắc Kỳ năm 1938 có 4 dạng chữ: chữ Quốc ngữ, chữ Nôm, chữ Nho, và chữ Pháp]]
Ngôn ngữ người Việt cũng bị tác động, quan trọng nhất là việc tiếp nhận [[chữ Quốc ngữ]] làm văn tự chính thức của người Việt. Quyết định của triều Nguyễn hủy bỏ toàn phần phép [[khoa cử]] có từ thời [[nhà Lý]] khiến [[chữ Hán|chữ Nho]] không còn là ngôn ngữ học thuật chính thống. Việc sử dụng chữ Quốc ngữ làm văn tự chính thức bên cạnh chữ Hán tạo điều kiện cho [[văn học]], [[báo chí]] viết bằng [[chữ Quốc ngữ]] phát triển, việc truyền bá tri thức, văn hóa trở nên dễ dàng hơn. Chữ Quốc ngữ dễ học hơn chữ Hán nên có thể dùng chữ Quốc ngữ xóa mù chữ nhanh chóng. Tuy nhiên, việc chữ Hán từ địa vị là ngôn ngữ học thuật chính thống trở thành một ngoại ngữ không quan trọng khiến đa số người Việt không còn khả năng đọc hiểu các tài liệu chữ Hán của tiền nhân. Hậu quả là người Việt bị tách ra khỏi di sản văn học, sử học, khoa học, tư tưởng của dân tộc viết bằng chữ Hán tích lũy được trong 10 thế kỷ<ref>[http://baotangnhanhoc.org/vi/bai-nghien-cu-lch-s/1231-tng-quan-tai-liu-nho-giao-va-nho-hc--vin-han-nom-.html TỔNG QUAN TÀI LIỆU NHO GIÁO VÀ NHO HỌC Ở VIỆN HÁN NÔM], Nguyễn Xuân Diện, Bài tham luận Hội thảo về Nho giáo Việt Nam. Đã in trên Tạp chí Hán Nôm số 1 (68), 2005</ref><ref name="Giang">[http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/323980/tai-sao-nen-dua-chu-han-quay-tro-lai-truong-pho-thong.html Tại sao nên đưa chữ Hán quay trở lại trường phổ thông?], PGS.TS Đoàn Lê Giang, Vietnamnet, 30/08/2016</ref>. Việc thay đổi nội dung giáo dục, bãi bỏ phép khoa cử truyền thống lấy [[Nho giáo]] làm trọng tâm khiến Nho giáo mất dần ảnh hưởng lên đời sống xã hội và chìm vào quên lãng. Điều này khiến xã hội tan rã do không được định hướng bởi một hệ thống giá trị chung, không còn tín hiệu tập hợp; [[đạo đức]] xã hội suy đồi và các giá trị văn hóa truyền thống bị thui chột. Pháp ngữ trở thành ngôn ngữ chính thức trong hệ thống giáo dục và trong hoạt động hành chính. Các tư tưởng phương Tây như tự do, dân chủ, nhân quyền, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản... thông qua sách báo và hệ thống giáo dục thuộc địa được phổ biến tuy nhiên người Việt không có hiểu biết sâu sắc về những hệ tư tưởng này. [[Phạm Quỳnh]] nói về việc học phương Tây không đến nơi đến chốn "''Thử xét trong những kẻ tự xưng là hạng tân tiến, mấy người đã học được đến nơi đến chốn? Mấy người có thể đối đáp nghị luận với Tây, nói những chuyện văn chương mỹ thuật, chính trị triết học mà người ta phải chịu phải phục? Hay là phần nhiều chỉ mới học mót được mấy câu văn sáo đã đem ra mà huyễn diệu đồng bào. Ấy là không nói những kẻ học chữ Tây cũng còn chửa thông, nói một câu không khỏi sai mẹo, mà cũng làm ra mặt thông thạo các lối văn minh mới, nhất thiết tự xưng là duy tân cả, coi văn hóa cũ của nước nhà như cỏ rác hết. Tưởng học được của người những gì hóa ra chỉ học được những thói tự do rởm, bình đẳng xằng, những cách du đãng phóng túng với cái tính khinh bạc ngạo mạn mà thôi. Lắm lúc trông thấy cái kết quả bất lương đó mà ngờ rằng nếu học Tây mà đến thế thì thà không học nữa còn hơn''<ref>Phong hóa suy đồi, Phạm Quỳnh, Nam Phong, 1932</ref>".