Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận chiến biển Java”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Trận chiến: AlphamaEditor, Executed time: 00:00:10.1691241 using AWB
Dòng 29:
Quân đổ bộ Nhật tập hợp để tấn công Java, và vào ngày 27 tháng 2 năm 1942, lực lượng hải quân chủ lực của Đồng Minh, dưới sự chỉ huy của Doorman, di chuyển theo hướng Đông Bắc từ [[Surabaya]] để phát hiện Lực lượng xâm lấn phía Đông đang tiến vào từ Eo Makassar. Hải quân Đồng Minh tham gia trận đánh được biết bao gồm <ref>BBC. [https://www.bbc.co.uk/history/ww2peopleswar/timeline/factfiles/nonflash/a1122300.shtml Fact File: Battle of Java Sea]</ref> 2 tàu tuần dương hạng nặng ({{HMS|Exeter|68|6}} và {{USS|Houston|CA-30|6}}), 3 tàu tuần dương hạng nhẹ ([[Kì hạm]] của Doorman {{HNLMS|De Ruyter|1935|6}}, {{HNLMS|Java|1921|6}}, {{HMAS|Perth|D29|6}}), và 9 tàu khu trục ({{HMS|Electra|H27|6}}, {{HMS|Encounter|H10|6}}, {{HMS|Jupiter|F85|6}}, {{HNLMS|Kortenaer|1927|6}}, {{HNLMS|Witte de With|1928|6}}, {{USS|Alden}}, {{USS|John D. Edwards}}, {{USS|John D. Ford}}, và {{USS|Paul Jones|DD-230|6}}). ''Exeter'' là chiến hạm duy nhất trong trận đánh được trang bị [[radar]], một công nghệ tiên tiến vào thời điểm đó.
 
Lực lượng tàu chiến Nhật bảo vệ đoàn vận tải, chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc [[Takeo Takagi]]<ref name="TakagiDEI">{{citechú thích web|last=L |first=Klemen |url=https://warfare.gq/dutcheastindies/takagi.html |title=Rear-Admiral Takeo Takagi |date=1999–2000 |work=Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942}}</ref> bao gồm hai tàu tuần dương hạng nặng ({{Ship|Tàu khu trục Nhật Bản|Nachi||2}} và {{Ship|Japanese cruiser|Haguro||2}}) và hai tàu tuần dương hạng nhẹ ({{Ship|Japanese cruiser|Naka||2}} và {{Ship|Japanese cruiser|Jintsū||2}}) và 14 tàu khu trục ({{Ship|Japanese destroyer|Yūdachi|1936|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Samidare|1935|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Murasame|1935|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Harusame|1935|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Minegumo|1937|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Asagumo|1937|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Yukikaze|1939|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Tokitsukaze|1939|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Amatsukaze|1939|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Hatsukaze||2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Yamakaze|1936|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Kawakaze|1936|2}}, {{Ship|Japanese destroyer|Sazanami|1931|2}}, và {{Ship|Japanese destroyer|Ushio|1930|2}}) của Đội tàu Khu trục thứ 4 chỉ huy bởi [[Shoji Nishimura]].<ref>{{citechú thích web|last=L |first=Klemen |url= https://warfare.gq/dutcheastindies/nishimura.html |title=Rear-Admiral Shoji Nishimura |date=1999–2000 |work=Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942}}</ref> Tàu tuần dương hạng nặng của Nhật mạnh hơn nhiều so với Đồng Minh, với 8 khẩu pháo 203 &nbsp;mm mỗi chiếc và [[Ngư lôi Ôxy kiểu 93|ngư lôi]] siêu hạng. Trong khi đó, ''Exter'' chỉ có 6 khẩu 203 &nbsp;mm và chỉ có 6 khẩu của ''Houston'' trong số 9 khẩu ban đầu còn hoạt động được do tháp pháo phía sau của nó bị phá huỷ sau một trận không kích.
 
Hai bên giao tranh trên biển Java liên tục từ giữa chiều đến nửa đêm trong đó Đồng Minh cố gắng tiếp cận và tấn công đoàn tàu chở quân của Hạm đội xâm lấn Nhật Bản, nhưng bị ngăn cản bởi hoả lực vượt trội của Nhật Bản. Do Nhật Bản không thể tiếp cận bằng hạm đội bằng đường không do thời tiết xấu, nên Đồng Minh có được ưu thế trên không cục bộ vào ban ngày. Tuy nhiên, thời tiết cũng ngăn cản việc liên lạc và làm cho sự hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng Đồng Minh - trinh sát, không quân, và sở chỉ huy Hạm đội - xấu đi. Người Nhật cũng gây nhiễu tần số vô tuyến điện. Cuộc tấn công của Đồng Minh bị lực lượng hộ tống Nhật chống trả, gây ra tổn thất nặng nề cho phía Đồng Minh.