Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Scaphochlamys lanjakensis”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{tiêu đề nghiêng}} {{Taxobox | name = ''Scaphochlamys lanjakensis'' | status = | status_system = | status_ref = | image = | image_caption = | regnum =…”
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 37:
 
''S. lanjakensis'' sở hữu cuống lá dài tương tự như ''[[Scaphochlamys petiolata|S. petiolata]]'', nhưng khác ở chỗ cụm hoa sắp xếp lỏng lẻo. ''S. lanjakensis'' cũng giống ''[[Scaphochlamys salahuddiniana|S. salahuddiniana]]'' ở cụm hoa, hoa và quả, nhưng khác ở cán hoa thuôn dài. Trục cụm hoa của ''S. lanjakensis'' thuôn dài theo kiểu như của ''[[Scaphochlamys gracilipes|S. gracilipes]]'', nhưng không bao giờ đạt đến chiều dài của trục cụm hoa của loài kia.<ref name=Ooi17/>
 
==Nhóm ''Anomala''==
Nhóm ''Anomala'' được xác định là có cụm hoa lỏng lẻo, các lá bắc dạng màng sắp xếp xoắn ốc, các lá bắc con tương tự nhưng hầu hết là dài hơn lá bắc, lá bắc con thứ nhất có 2 gờ lưng rất mờ nhạt và khó thấy, hoa nhỏ dài ~2,5 cm, với cánh môi màu trắng dài ~1 cm, vỏ quả ngoài có u/bướu nhỏ. Nhóm ''Anomala'' bị giới hạn ở phía tây của đới khâu Đường Lupar chạy theo hướng đông đông nam qua Engkilili và Lubok Antu. Gồm bảy loài là ''[[Scaphochlamys anomala|S. anomala]]'', ''[[Scaphochlamys gracilipes|S. gracilipes]]'', ''[[Scaphochlamys iporii|S. iporii]]'', ''S. lanjakensis'', ''[[Scaphochlamys penyamar|S. penyamar]]'', ''[[Scaphochlamys salahuddiniana|S. salahuddiniana]]'', ''[[Scaphochlamys scintillans|S. scintillans]]''.<ref name=Ooi17/>
 
==Chú thích==