Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Chiêu Hoàng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 81:
[[Tập tin:Toda No. 16 元豐通寶.png|nhỏ|200px|Một đồng tiền được cho là có niên đại vào cuối thời Lý, đầu thời Trần.]]
 
Năm [[Ất Dậu]], Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 ([[1225]]), họ Trần do nắm quyền hành, lần lượt được ban chức tước quan trọng cho con em trong họ, đáng kể nhất là rất nhiều con cháu họ Trần được tuyển vào cung để sung vào các chức vụ hầu trong đại nội, gần gũi với Chiêu Hoàng, bao gồm: "Lục hỏa Thị cung ngoại" (六火侍宫外), "Chỉ hầu" (祗侯; hay còn gọi "Chi hậu") và "Nội nhân Thị nội" (内人侍内), thường thay nhau trực chầu hầu<ref>{{harvp|Ngô Sĩ Liên|1697|loc= "Chiêu Hoàng bản kỷ"|ps=: Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 [1125] , (Từ tháng 12 về sau là niên hiệu Trần Thái Tông Kiến Trung năm thứ 1; Tống Lý Tông Hú, Bảo Khánh thứ 1). mùa ông, tháng 10, xuống chiếu tuyển con em của quan viên trong ngoài sung vào các sắc dịch trong nội, như lục hỏa Thị cung ngoại, Chi hậu, Nội nhân Thị nội, ngày đêm thay phiên nhau chầu hầu.}}</ref>{{NoteTag|Nguyên văn [https://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A4%A7%E8%B6%8A%E5%8F%B2%E8%A8%98%E5%85%A8%E6%9B%B8/%E6%9C%AC%E7%B4%80%E5%8D%B7%E4%B9%8B%E5%9B%9B bản chữ Hán]: 冬十月,詔選内外官員子弟充内色役,六火侍宫外,祗侯、内人侍内,日夜番上侍從。<br>Chức "Lục hỏa Thị cung ngoại" có lẽ là 6 đội (hỏa) trực bên ngoài cung, còn "Chỉ hầu" hay "Chi hậu", cùng "Nội nhân Thị nội", đều là các chức hầu gần gũi Thiên tử, nằm trong hệ thống '''Nội thị sảnh''' (内侍廳). Hệ thống này mô phỏng theo kiểu Hán-Đường, dùng cả [[hoạn quan]] (người bị thiến) lẫn sĩ nhân bình thường, xuất hiện khoảng đầu triều Lý<ref>{{harvp|Ngô Sĩ Liên|1697|loc=[https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt08.html "Nhân Tông Hoàng đế bản kỷ"]|ps=: Mùa hạ, tháng 6, Thái úy Lý Thường Kiệt chết... Thường Kiệt người phường Thái Hòa, thành Thăng Long, nối đời làm quan, nhiều mưu lược, có tài làm tướng. Khi còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng môn chi hậu theo hầu Thái Tông, thăng dần đến chức Nội thị sảnh đô tri.}}</ref>. Do các chức này phục vụ có ca riêng trong tẩm điện cá nhân của nhà Vua, mà hậu phi lại ở khu vực khác, nên nên đời xưa không bắt buộc người đảm nhiệm là hoạn quan.}}. Lúc này, chức vụ của Trần Thủ Độ đã bao quát đến nỗi "''coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị''", trong các con em vào cung hầu Chiêu Hoàng thì có [[Trần Bất Cập]] là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú - được phong "Cận Thị thự Lục cục Chi hậu" (近侍署六局祗候), ngoài ra còn có [[Trần Thiêm]] làm "Chi Ứng cục" (祗應局) và [[Trần Thái Tông|Trần Cảnh]] làm "Chính thủ" (政首){{NoteTag|Đều là các chức quan đảm nhiệm việc hầu cận Hoàng đế, trực thuộc Nội thị sảnh.}}. Chính thủ Trần Cảnh, là con trai thứ 2 của quan Thái úy Trần Thừa, mới 8 tuổi được đưa vào hầu gần Chiêu Hoàng, ban đầu chỉ là ở bên ngoài điện, sau đó phụ trách đưa nước rửa mặt cho Chiêu Hoàng nên vào hầu bên trong. Trần Cảnh cùng gần tuổi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chính bằng cách để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Từ đó, nhà Trần được thành lập.
 
Năm Ất Dậu ([[1225]]), ngày [[21 tháng 10]] (tức ngày [[22 tháng 11]] dương lịch), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày [[11 tháng 12]] năm ấy (tức ngày [[10 tháng 1]] năm [[1226]]), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở [[điện Thiên An]], dựng lên [[nhà Trần]], sử gọi là [[Trần Thái Tông]]<ref>{{Chú thích web|url=https://nghiencuulichsu.com/2016/10/17/nha-ly-21111009-102011226-xay-dung-va-bao-ve-dat-nuoc/|tiêu đề=Nhà Lý (21/11/1009-10[20]/1/1226)- Xây dựng và bảo vệ đất nước}}</ref>. Chiêu Hoàng được Thái Tông phong làm Hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh. Từ đây nhà Lý hoàn toàn chấm dứt sau 216 năm cai trị.
Dòng 98:
Mùa thu, tháng Chạp, nhà vua sai quan Nội thị Phán thủ là Phùng Tá Chu, quan Nội hành khiển Tả ty Lang trung là Trần Chí Hoành, các tướng văn võ trong ngoài và các viên quan lại hãy quản lãnh thuyền rồng, chuẩn bị pháp giá đến phủ Cương Tinh mà đón Thái Tổ.
 
Đến ngày mùng một tháng Chạp năm đó [năm Ất Dậu-1225], con của Trần Thừa là Trần Cảnh nhân việc nhường ngôi mà lên làm vua ở tại điện Thiên An. Rồi tôn Thuận Trinh hậu làm Thái hậu, giáng Chiêu vương xuống làm Chiêu Thánh Vương hậu. Đổi niên hiệu là Kiến Trung. Thái thượng vương cùng với mẹ của ngài là bà Thái hậu Đàm thị đi ra ở nơi chùa Phù Liệt, lấy hiệu là Huệ Quang Thiền sư.|||Đại Việt sử lược - "kỷ Huệ Tông"{{noteTag|[https://zh.wikisource.org/wiki/%E8%B6%8A%E5%8F%B2%E7%95%A5/%E5%8D%B7%E4%B8%8B Bản chữ Hán]: 王以女主而幼為憂,召馮佐周謀曰:“朕以不德,獲戻於天,絶無繼嗣,傳位於女。以一隂而御羣陽,衆所不與,必致悔亡。以吾觀之,莫若逺法唐堯,近體仁祖,擇其賢者而授之。今所見太尉仲子某,年雖冲幼,相貌非常,必能濟世安民。欲以為子,而主神器。仍以昭王配之。卿等為朕言於太尉。”太祖亦未之信。左輔阮正吏謂太祖曰:“阮氏之有國也,賢君六七作,其餘德遺澤,入人也深。一旦遽以異姓為嗣,意其試之以觀我何如耳。茍因而受之,天下必謂太尉實有篡逆之志。”太祖欲從之,上品奉御陳守度曰:“左輔之言非也。假如上王有子,反欲遜於二郎,揆之於義,則不可奉詔。今以無嗣,欲擇賢而付之,此乃上王逺法堯舜之真讓,又何疑哉?况天位不可久曠,而上王遜避之意已决,别選他姓為嗣,雖欲不臣事之,其可得乎?且上王以二郎為嗣,乃天意也。天與不取,反受其咎。願太尉熟思之。”冬十二月,命内侍判首馮佐周、内行遣左司郎中陳智宏,將内外文武臣僚,領龍舟,備法駕,赴星罡府,迎我太宗。以是年十二月初一日受禪,即位於天安殿,尊順貞皇后為太后,降昭王為昭聖王后,改元建中。太上王與其母譚太后出居扶列寺,號惠光禪師。以建中二年八月丙戌,薨於善教寺,廟號惠宗,在位十五年有竒。改元者一,曰建嘉,凡十五年。壽三十三,殯於安華府寳光寺。}}}}
 
Quá trình mà Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho họ Trần, thông tin từ sách [[Đại Việt sử ký toàn thư]] chép có ý khẳng định là do Trần Thủ Độ đứng sau và thao túng, vai trò của Lý Huệ Tông hoàn toàn bị lược bỏ đi:
Dòng 118:
Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được lập làm Hoàng hậu, trở thành vị Hoàng hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử, vì khi đó bà mới 8 tuổi. Bà chung sống với Trần Thái Tông hơn 10 năm, không có ghi chép gì cụ thể về bà trong suốt thời gian này.
 
Năm [[Đinh Dậu]], Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 ([[1237]]), hơn 10 năm mà Thái Tông cùng Chiêu Thánh không có con, Thái sư [[Trần Thủ Độ]] cùng [[Linh Từ quốc mẫu|Thiên Cực Công chúa]] lo sợ huyết thống hoàng gia bị đứt đoạn, nên ép Thái Tông phải bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu là [[Thuận Thiên (hoàng hậu)|Thuận Thiên Công chúa]] đang có thai 3 tháng. Trần Thái Tông cảm thấy chuyện này hổ thẹn, đang đêm trốn khỏi kinh thành để lên gặp sư Phù Vân ở [[Yên Tử]] nương nhờ. Trần Thủ Độ vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng Thái Tông cũng phải chịu nghe theo. Thuận Thiên Công chúa được lập làm Hoàng hậu thay thế, Chiêu Thánh bị giáng làm "Công chúa", không- tức hànhhàng trạng[[mệnh củaphụ|ngoại mệnh trong thời gian sau khi bị giáng tướcphụ]]<ref>{{harvp|Ngô Sĩ Liên|1697|loc= [https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt10a.html "Thái Tông Hoàng đế bản kỷ"]|ps=: Đinh Dậu, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 6 [1237], (Tống Gia Hy năm thứ 1)... Lập Công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài vương Liễu, anh vua, làm Thuận Thiên Hoàng hậu, giáng Chiêu Thánh làm Công chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con mà Thuận Thiên đã có mang Quốc Khang được 3 tháng. Trần Thủ Độ và Thiên Cực Công chúa bàn kính với vua là nên mạo nhận lấy để làm chổ dựa về sau, cho nên có lệnh ấy.}}</ref>. Vì chuyện này, Hoài vương [[Trần Liễu]] nổi loạn ở [[sông Cái]], nhiều năm nhiều tháng không ngừng. Cuối cùng, Trần Liễu đến xin Thái Tông tha tội, hai anh em ôm nhau khóc thảm thiết. Sau đó, Liễu được đổi phong hiệu làm '''An Sinh vương''' (安生王), được ban các vùng Yên Sinh, Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Hưng, Yên Bang làm ấp thang mộc (nay thuộc hai huyện [[Đông Triều]] và [[Yên Hưng]], tỉnh [[Quảng Ninh]]). Những tướng sĩ và quân lính đi theo Trần Liễu làm loạn đều bị xử tử<ref>{{harvp|Ngô Sĩ Liên|1697|loc= "Thái Tông Hoàng đế bản kỷ"|ps=: Lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc. Nhân đất được phong, mà Liễu có tên hiệu là Yên Sinh vương (hay An Sinh vương). Binh lính [theo Liễu] làm loạn ở sông Cái đều bị giết.}}</ref>.
 
Từ ấy đến hơn 20 năm sau, chính sử không hề đề cập hành trạng của bà. Sách "[[Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió]]" của Lê Thái Dũng có đề cập về một truyền thuyết rằng Chiêu Thánh Công chúa sau khi bị giáng đã [[xuất gia]] tại chùa Linh Tiên của làng Giao Tự (nay thuộc xã [[Kim Sơn]], huyện [[Gia Lâm]], [[Hà Nội]]), thế nhưng văn bản chứng minh rất mơ hồ<ref>Lê Thái Dũng (2011), ''Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió'', tr. 34-35.</ref>. Năm [[Mậu Ngọ]], Nguyên Phong năm thứ 8 ([[1258]]), sau cuộc chiến với quân đội [[Mông Cổ]] trong dịp [[Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1|người Nguyên vào cướp]], Trần Thái Tông gả Chiêu Thánh Công chúa cho quan Ngự sử trung tướng [[Lê Phụ Trần]], vốn tên '''Lê Tần''' (黎秦), người [[Ái Châu]]{{NoteTag|Học giả [[Trần Bá Chi]] căn cứ vào "''Cổ Mai bi ký''" và "''Lê triều miêu duệ''" cho rằng Lê Tần là con của danh tướng [[Lê Khâm]] - người có công giúp [[Trần Thái Tổ]] Trần Thừa đánh dẹp Hoài Đạo vương [[Nguyễn Nộn]]. Thông tin này vẫn chỉ là dựa vào bia ký cùng phả hệ được soạn vào đời sau, trong khi các sách đương thời ngoài đề cập Lê Tần là người Ái Châu ra thì cũng không nói gì thêm.}}, vì có công phò giúp nhà Vua nên được Thái Tông ban tên "Phụ Trần" (có nghĩa giúp họ Trần) và ban cho chức [[Ngự sử đại phu]], sách [[An Nam chí lược]] ghi Lê Phụ Trần được phong "Nhập nội Phán thủ" (入內判首) và còn được ban tước '''Bảo Văn hầu''' (保文侯)<ref>{{harvp|Lê Tắc|loc= [https://zh.wikisource.org/wiki/%E5%AE%89%E5%8D%97%E5%BF%97%E7%95%A7/%E5%8D%B7%E5%8D%81%E4%BA%94 quyển 15]|ps=: Lê Tần, người Ái Châu, tính hoà kính, học rộng, Thái vương (tức Trần Thái Tông) dùng làm Hàn trưởng (翰長). Mùa đông năm Đinh Tỵ, theo Vương chống Ngột Lương Hợp Thai, binh bại, cùng Vương giong ngựa chạy đến Phạm Gia Bảo, gặp có Phạm Cụ Chích đem binh đến cứu, quan binh (quân Nguyên) giết Cụ Chích, Thái vương chạy khỏi đến bến Lãnh Mỹ mới lên thuyền, kỵ binh đuổi theo kịp, nhắm Thái vương loạn xạ, Tần lấy ván thuyền che cho Vương chạy khỏi. Thái vương nhớ công, phong Tần làm Bảo Văn hầu, Nhập nội Phán thủ.}}</ref>. Khi quyết định ban hôn, Thái Tông còn nói: "''Trẫm không có khanh, thì đâu có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để cùng được trọn vẹn về sau''"<ref>{{harvp|Ngô Sĩ Liên|1697|loc= "Thái Tông Hoàng đế bản kỷ"}}</ref>.
 
Đầu năm [[Mậu Dần]], niên hiệu Bảo Phù thứ 6 ([[1278]]), [[tháng 3]], Chiêu Thánh Công chúa Lý thị qua đời, thọ 61 tuổi. Bà qua đời sau gần 1 năm tròn so với Trần Thái Tông (qua đời năm [[1277]]). Khi bà Chiêu Thánh được gả cho Lê Phụ Trần thì bà đã ở vào khoảng năm 40 tuổi, hai người sống với nhau 20 năm, sinh ra con trai là Thượng vị hầu [[Lê Tông]], con gái là [[Ứng Thụy Công chúa]] tên là Khuê. Chính sử không chép nơi an táng và lễ nghi của bà Chiêu Thánh, và dù khi qua đời bà vẫn chỉ là "Chiêu Thánh Công chúa", nhưng hậu thế vẫn thường gọi bà theo tôn hiệu "'''Lý Chiêu Hoàng'''".
 
== Nhìn nhận ==
Dòng 139:
Ôi! Dâm phong của nhà Trần tập nhiễm đã quen; bà Thiên Cực là Thái hậu mà lấy người bầy tôi, bà Thuận Thiên là chị dâu mà lấy em chồng, cho nên bây giờ bà Chiêu Thánh cũng là Hoàng hậu mà lấy người bầy tôi làm chồng, Phụ Trần là bầy tôi mà lấy bà Hậu làm vợ, mẹ ấy con ấy, chị ấy em ấy, vợ ấy chồng ấy, vua ấy tôi ấy, thật không bằng cầm thú.|||Việt sử tiêu án - "Nhà Trần, Thái Tông Hoàng đế"}}
 
Học giả [[Lê Thái Dũng]] trong cuốn "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" có ghi lại một tương truyền rằng trước khi qua đời, Lý Chiêu Hoàng đã về thăm quê Cổ Pháp ([[Bắc Ninh]]) thì qua đời tại đó. Khi mất, tóc bà vẫn đen nhánh, [[môi]] vẫn đỏ như son, má vẫn tươi như [[đào (cây)|hoa đào]]<ref name="LTD">Lê Thái Dũng, sách đã dẫn, tr. 69.</ref>., cũng vì những thông tin này mà trong sách còn đề cập một giả thiết rằng Lý Chiêu Hoàng được gả cho Lê Phụ Trần một "thế thân", mà Lý Chiêu Hoàng thực tế vẫn còn ở trong cung, hoặc đã qua đời, hoặc đã xuất gia, tuy nhiên những điều trên mà Lê Thái Dũng ghi chép đều chỉ mang tính truyền miệng của dân gian, hoàn toàn không được xem là chứng cứ. Sau khi mất, chính sử không chép về nơi Lý Chiêu Hoàng được an táng, tuy nhiên không biết từ bao giờ mà có thông tin rằng Lý Chiêu Hoàng được an táng ở bìa rừng Báng, phía tây Thọ Lăng Thiên Đức (nơi an táng của các vị Vua nhà Lý), do vậy người đời sau lập đền thờ gọi là Long Miếu ([[đền Rồng]]) - hiện nay tại [[Đình Bảng]], thị xã Từ Sơn, (tỉnh [[Bắc Ninh]])<ref>{{Chú thích web|url= http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/200916/20090413000413.aspx|title = Vụ đập nát để xây mới đền thờ Lý Chiêu Hoàng|website=[[thanh Niên (báo)|báo Thanh Niên]]|date = 12-04-2009}}</ref>. Cũng theo Lê Thái Dũng, sở dĩ Lý Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ Lý khi để mất nhà Lý<ref name="LTD"/>.
 
Nhà thơ [[Tản Đà]] có bài thơ '''Vịnh Lý Chiêu Hoàng''' như sau:
Dòng 146:
:''Ấy ai khôn khéo tài dan díu''
:''Những chuyện hoa tình có biết không?''
:''Một gốc mận già<ref>{{noteTag|Mận là chữ "" (李), ám chỉ nhà Lý đã suy.</ref>}} thôi cũng phải''
:''Hai trăm năm lẻ thế là xong''
:''Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo<ref>Chùa Chân Giáo là nơi [[Lý Huệ Tông]] đi tu sau khi bị [[Trần Thủ Độ]] ép rời ngôi.</ref>''
:''Khách khứa nhà ai áo mũ đông.''
 
Ở Từ Sơn ([[Bắc Ninh]]) vẫn còn câu ca dao thác lời Chiêu Hoàng trách Trần Cảnh về việc này:
:''Trách người quân tử bạc tình''
:''Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!''<ref>Tuyển tập Nguyễn Tường Phượng, Nhà Xuất bản Văn học, 1996, tr. 585.</ref>
 
== Hậu duệ ==
Dòng 178:
* {{Chú thích sách|url=https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_s%E1%BB%AD_l%C6%B0%E1%BB%A3c|title = Đại Việt sử lược|last= Khuyết danh|year=1377|ref=harv}}
* {{Chú thích sách|url=https://vi.wikipedia.org/wiki/An_Nam_ch%C3%AD_l%C6%B0%E1%BB%A3c|title = An Nam chí lược|last= Lê Tắc|ref=harv}}
* {{Chú thích sách|url=https://xemsachhay.com/gio-trang-su-viet/|title = Giở trang sử Việt|author= Lê Thái Dũng|year=2008|publisher=NXB Đại học Quốc gia Hà Nội|ref=harv}}
* Nhiều tác giả (2006), ''Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn'', Nhà Xuất bản Hà Nội.
* {{Chú thích sách|url=http://tn.ttn.edu.vn/thuvien/index.php/2013-08-29-07-31-38/358-lyhmdsg|title= Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió|author=Lê Thái Dũng|year=2011|publisher=NXB Văn học|ref=harv}}
* Lê Thái Dũng (2008), ''Giở trang sử Việt'', Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
* Trần Bá Chi (2005), ''Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn'', Nhà Xuất bảnNXB Hà Nội.
* Nguyễn Tường Phượng (1996), ''Tuyển tập Nguyễn Tường Phượng'', NXB Văn học.
 
== Xem thêm ==