Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ray of Light”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 9:
| border = yes
| alt =
| released = {{start date|1998|02|2322}}
| recorded = Tháng 6–11, 2020
| studio = Larrabee North (Los Angeles)
Dòng 41:
}}
}}
'''''Ray of Light''''' là [[album phòng thu]] thứ bảy của nghệ sĩ thu âm người Mỹ [[Madonna (ca sĩ)|Madonna]], phát hành ngày 2322 tháng 2 năm 1998 bởi [[Maverick (tập đoàn)|Maverick]] và [[Warner Bros. Records]]. Sau khi sinh đứa con đầu lòng, Madonna bắt đầu thực hiện album với một số nhà sản xuất từng hợp tác trước đó như [[Babyface (nhạc sĩ)|Babyface]] và [[Patrick Leonard]]. Sau những buổi làm việcnhưng không hiệu quả, vớitrước họ,khi nữ ca sĩ theo đuổi một hướng đi âm nhạc mới với nhà sản xuất người Anh [[William Orbit]]. Đây là đĩa hát mất nhiều thời gian thu âm nhất trong sự nghiệp của Madonna và cô phải đối mặt với nhiều sự cố liên quan đến hư hỏng phần cứng từ những thiết bị của Orbit, dẫn đến quá trình bị trì hoãn cho đến khi chúng được khắc phục. Được xem là bước đột phá rõ rệt so với những tác phẩm trước của cô, ''Ray of Light'' là một đĩabản hátthu âm [[electronica]] và [[synth-pop|techno-pop]] kết hợp với nhiều thể loại khác nhau, như [[ambient]], [[trip hop]], [[nhạc psychedelic]] và [[nhạc Trung Đông]], trong đó Madonna hát với âm vực rộng hơn và tông giọng đầy đặn hơn.
 
''Ray of Light'' tập trung khai thác những chủ đề huyền bí trong cả âm nhạc và nội dung lời bài hát, là thành quả sau khi Madonna theo đuổi [[Kabbalah]], những nghiên cứu về [[Ấn Độ giáo]] và [[Phật giáo]], cũng như những bài tập hànghằng ngày về [[Ashtanga vinyasa yoga|Ashtanga yoga]]. Sau khi phát hành, nó nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao hướng đi âm nhạc mới của nữ ca sĩ. Được nhìn nhận là bản thu âm "mạo hiểm nhất" của Madonna, ''Ray of Light'' gây chú ý bởi nội quan và bản chất tâm linh của nó, đồng thời giọng hát của cô cũng được khen ngợi. Album chiến thắng bốn hạng mục [[giải Grammy]] trên tổng số sáu đề cử, bao gồm đề cử cho [[Giải Grammy cho Album của năm|Album của năm]]. Nó ra mắt và đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] với doanh số tiêu thụ tuần đầu lớn nhất bởi một nghệ sĩ nữ lúc bấy giờ. ''Ray of Light'' cũng đứng đầu các bảng xếp hạng ở nhiều thị trường lớn như Úc, Canada, Đức và Vương quốc Anh, đồng thời bán được hơn 16 triệu bản trên toàn cầu.
 
Năm đĩa đơn đã được phát hành từ ''Ray of Light'', bao gồm hai bản hit toàn cầu "[[Frozen (bài hát)|Frozen]]" và "[[Ray of Light (bài hát)|Ray of Light]]", trong khi những đĩa đơn còn lại "[[Drowned World/Substitute for Love]]", "[[The Power of Good-Bye]]" và "[[Nothing Really Matters]]" cũng gặt hái nhiều thành công đáng kể ở một số quốc gia. Để quảng bá album, Madonna thực hiện chuyến lưu diễn [[Drowned World Tour]] trong năm 2001 với 47 buổi diễn ở châu Âu và Bắc Mỹ. Được đánh giá là một trong những đĩa hát thành công nhất về mặt chuyên môn của Madonna, cácNhiều nhà phê bình âm nhạc ghi nhận tầm ảnh hưởng của album''Ray of Light'' đối với nền [[nhạc đại chúng]] và cách nó phổ cập nhạc điện tử đến văn hóa đại chúng chính thống ở Mỹ. Họ cũng tán dương sự tái sinh trong âm nhạc của Madonna đã giúp cô khẳng định sức hút và tên tuổi giữa những nghệ sĩ hướng đến lứa tuổi thanh thiếu niên lúc bấy giờ. Ngoài ra, ''Ray of Light'' thường xuyên được nhiều tổ chức và ấn phẩm âm nhạc coi là một trong những album nhạcxuất popsắc haynhất mọi thời đại, bao gồm vị trí thứ 220 trong danh sách [[500 album vĩ đại nhất (danh sách của Rolling Stone)|500 album vĩ đại nhất mọi thời đại]] của ''[[Rolling Stone]]''.<ref>{{harvnb|Taraborrelli|2008|pp=535–538}}</ref>
 
==Bối cảnh==
[[File:Madonna - Wembley Arena 120806 (35).jpg|thumb|upright|Madonna đang trình diễn bản nhạc mở đầu album, "[[Drowned World/Substitute for Love]]", trong chuyến lưu diễn [[Confessions Tour]] năm 2006.]]
Sau khi phát hành album tổng hợp ''[[Something to Remember]]'' (1995), Madonna trải qua những buổi học thanh nhạc để chuẩn bị cho vai diễn trong ''[[Evita (phim năm 1996)|Evita]]'' (1996). Cô cũng sinh con gái đầu lòng, Lourdes, sau đó vào năm 1996. Những sự kiện này đã truyền cảm hứng cho một giai đoạn nhìn nhận nội tâm của nữ ca sĩ. "Đó là một chất xúc tác lớn đối với tôi. Nó khiến tôi phải tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi tôi chưa bao giờ tự hỏi mình trước đây", cô nói với tạp chí ''[[Q (tạp chí)|Q]]'', vào năm 2002.<ref name="qmag"/> Trong cùng khoảng thời gian đó, cô tiếp cận [[Kabbalah]] và bắt đầu tìm hiểu [[Ấn Độ giáo]] và [[yoga]], tất cả điều đó giúp cô "thoát ly [bản thân] và nhìn thế giới dưới một góc nhìn khác".<ref name="qmag"/> Madonna cảm thấy rằng có một "mảng lớn" trong giọng hát của cô vẫn chưa dùng đến, và cô quyết định sử dụng cho ''Ray of Light''.<ref name="qmag">{{chú thích tạp chí|title=Making of Ray of Light|first=Johnny|last=Black|journal=[[Q (tạp chí)|Q]]|date=August 2002|volume=17|issue=8|issn=0955-4955}}</ref> Đến tháng 5 năm 1997, Madonna bắt đầu viết những bài hát cho album. Cô tiến hành hợp tác với [[Babyface (nhạc sĩ)|Babyface]], người lần đầu làm việc với cô trong album phòng thu trước ''[[Bedtime Stories (album của Madonna)|Bedtime Stories]]'' (1994). Hai người viết vài bản nhạc cùng nhau trước khi Madonna nhận thấy sự hợp tác đang đi chệch hướng âm nhạc cô muốn cho đĩa hát. Theo Babyface, những bài hát "mang chút hơi hướng của "[[Take a Bow (bài hát của Madonna)|Take a Bow]]" và Madonna không muốn, hoặc không cần, phải lặp lại chính mình".<ref name="spin">{{chú thích tạp chí|last=Walters|first=Barry|date=April 1998|title=Madonna: The 'Ray of Light' Cover Story, 'Madonna Chooses Dare'|url=http://www.spin.com/2016/03/madonna-ray-of-light-cover-story-1998/|journal=[[Spin (tạp chí)|Spin]]|access-date=March 4, 2016}}</ref>
 
Sau khi loại những bản nhạc viết với Babyface, Madonna chuyển sang nhạc sĩ [[Rick Nowels]], người trước đó đồng viết lời nhiều bài hát với [[Stevie Nicks]] và [[Céline Dion]]. Cả hai tạo nên bảy bản nhạc trong chín ngày, nhưng chúng cũng không thể khắc họa định hướng nhạc điện tử tương lai của album. <ref name="spin"/> Ba trong số các bài hát, "[[The Power of Good-Bye]]", "To Have and Not to Hold" và "Little Star", xuất hiện trong album.<ref name="spin"/> Madonna sau đó bắt đầu làm việc với [[Patrick Leonard]], người từng sản xuất nhiều tác phẩm cho nữ ca sĩ vào cuối thập niên 1980. Không như những album trước của cô, những thành phẩm hợp tác với Leonard có rất ít sự can thiệp của kỹ thuật phòng thu. Madonna tin rằng sự tham gia của Leonard "sẽ khiến những bài hát nghe giống như của [[Peter Gabriel]] nhiều hơn", một âm thanh cô không muốn cho album.<ref name="spin"/> [[Guy Oseary]], chủ tịch của Maverick Records, sau đó gọi điện cho nhạc sĩ điện tử người Anh [[William Orbit]], và đề nghị ông gửi một số bản nhạc cho Madonna.<ref name="qmag"/> Orbit đã gửi một đoạn băng âm thanh số gồm 13 bản cho Madonna. "Tôi rất hâm mộ các đĩa nhạc trước của William, ''[[Strange Cargo (album của William Orbit)|Strange Cargo 1]]'' và ''[[Strange Cargo 2|2]]'', và tất cả mọi thứ. Tôi cũng thích tất cả những bản phối lại anh ấy từng làm cho tôi và tôi quan tâm đến việc kết hợp một loại âm thanh tương lai nhưng cũng sử dụng nhiều ảnh hưởng của Ấn Độ và Ma-rốc hoặc những thứ tương tự, đồng thời tôi muốn nó nghe cũ kỹ lẫn mới mẻ cùng một lúc", Madonna nói.<ref name="qmag"/>
 
==Thu âm==
{{Quote box|align=left|width=25%|quote="Phải mất một khoảng thời gian dài để thực hiện album, hàng tháng trời. Và không phải vì chúng tôi chểnh mảng. Chúng tôi thực sự phải làm việc khẩn trương, và có nhiều lúc phải cố gắng tiếp tục. Một trong những câu nói yêu thích của Madonna là: 'Đừng mạ vàng đóa hoa huệ.' Nói cách khác, hãy giữ cho nó thô sơ và đừng hoàn thiện nó quá nhiều. Đó là sự thôi thúc tự nhiên đến những chuyên gia vi tính để hoàn thiện mọi thứ vì họ có thể và chúng tôi rất thận trọng với điều đó."|source=—Orbit nói về việc hợp tác với Madonna; tạp chí [[Tạp chí Keyboard|''Keyboard'']]<ref name=keyboard>{{chú thích web|last=Kot|first=Greg|url=http://www.keyboardmag.com/features/madonna/madonna.shtml|title=The Methods and Machinery Behind Madonna's Ray of Light By Greg Rule|access-date=April 7, 2012|work=Keyboard Magazine|publisher=Miller Freeman, Inc|archive-url=https://web.archive.org/web/19991009071554/http://www.keyboardmag.com/features/madonna/madonna.shtml|archive-date=October 9, 1999}}</ref>}}
 
Vào đầu tháng 6 trước khi bắt đầu thu âm, Orbit gặp Madonna tại nhà cô ở New York, và nữ ca sĩ phát cho ông nghe những bản nhạc cô làm việc với các nhà sản xuất khác tính đến tháng 5 năm 1997, và ông cảm thấy có vẻ "mượt mà".<ref name="qmag"/><ref name="spin"/> Họ ghé thăm [[The Hit Factory|Hit Factory]] vào cuối tuần đó, nơi Madonna mời nhà sản xuất làm việc cho ''Ray of Light''.<ref name="keyboard"/> Orbit sau đó gửi cho cô một đoạn băng gồm các đoạn nhạc ông đang thực hiện, thường là những đoạn tám hoặc mười sáu [[Tiết nhịp|nhịp]] hoặc phiên bản mộc của những bản nhạc sẽ xuất hiện trong album sau này.<ref name="spin"/> Madonna nghe đi nghe lại các bản mẫu cho đến khi có cảm hứng viết lời. Một khi nữ ca sĩ có ý tưởng về hướng phát triển lời cho bài hát, cô sẽ thuật lại ý tưởng của mình cho Orbit, và chúng sẽ được mở rộng hơn so với ý tưởng ban đầu.<ref name="spin"/> Dựa trên phần lớn các bản thu nháp hòa tấu có sẵn, Madonna bắt đầu sáng tác lời bài hát và giai điệu khi ở nhà hoặc khi du lịch.<ref name="qmag"/>
 
Album được thu âm trong hơn bốn tháng rưỡi tại Larrabee North Studio ở [[Bắc Hollywood, California]], bắt đầu từ giữa tháng 6 năm 1997, là khoảng thời gian thực hiện một album lâu nhất của Madonna. Trong phần lớn quá trình thu âm, chỉ có ba người khác trong phòng thu với Madonna: William Orbit, một kỹ sư tên Pat McCarthy, và trợ lý kỹ sư của anh, Matt Silva.<ref name="spin"/> Họ bắt đầu thu âm ở Los Angeles, nhưng quá trình ban đầu gặp phải một số vấn đề về máy móc, vì Orbit thích làm việc với những đoạn nhạc mẫu và âm thanh tổng hợp, chứ không phải với nhạc công trực tiếp. Máy tính sẽ bị hỏng và việc thu âm phải trì hoãn cho đến khi chúng được sửa chữa.<ref name="spin"/><ref name="keyboard"/> Orbit ghi lại hầu hết phần hòa tấu của album trong khoảng thời gian bốn tháng. Orbit nhớ lại rằng ngón tay của anh bị chảy máu khi chơi guitar trong nhiều giờ ở phòng thu.<ref name="spin"/>
 
Sau một số sai sót trong cách phát âm thể thơ tiếng Phạn "Yoga Taravali" trong "Shanti/Ashtangi", [[BBC]] sắp xếp cho Madonna tham gia các buổi học trên điện thoại để học cách phát âm chính xác cơ bản những từ tiếng Phạn từ học giả lỗi lạc [[Vagish Shastri]]. Sau đó, cô thực hiện các chỉnh sửa phát âm cần thiết trong album.<ref>{{chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1431587/madonna-considers-signing-up-sanskrit-lessons.jhtml|title=Madonna Considers Signing Up For Sanskrit Lessons|publisher=[[MTV News]]. [[MTV Networks]]|date=December 31, 1998|access-date=April 7, 2012}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://articles.timesofindia.indiatimes.com/2001-09-08/lucknow/27245720_1_sanskrit-shastri-madonna|archive-url=https://web.archive.org/web/20110811114524/http://articles.timesofindia.indiatimes.com/2001-09-08/lucknow/27245720_1_sanskrit-shastri-madonna|url-status=dead|archive-date=August 11, 2011|title=Madonna learnt Sanskrit via phone calls|date=September 8, 2001|work=[[The Times of India]]|access-date=April 7, 2012}}</ref> Trong một cuộc phỏng vấn với [[MTV]], Madonna nhớ lại quá trình thu âm ''Ray of Light'', tiết lộ rằng đối tác kinh doanh của cô [[Guy Oseary]] là một người bạn hữu ích, vì sau khi cô và Orbit phát cho ông vài bản nhạc, Oseary, trước sự thất vọng của họ, không nói gì và rời khỏi phòng thu. "Anh ấy thực sự ghét dàn dây lãnh đạm đó. Ngay khi tôi nghĩ rằng bài hát đã hoàn thành, anh ấy thúc đẩy chúng tôi đi thêm bước nữa. 'Có lẽ chúng ta nên thử cái này', hoặc 'Tôi thực sự không muốn nghe điều đó'. Và tất nhiên, sau đó, nó len lỏi trong não tôi, và tôi nghĩ, 'Chắc tôi sẽ bổ sung giọng nền cho bài hát đó'. Và rồi cô ấy bước vào và vui vẻ làm điều đó, đúng không nào?" Madonna nói.<ref>{{chú thích web|url=http://www.mtv.com/bands/archive/m/madonna/insidemad/index.jhtml |title=MTV Bands - Archive - M - Madonna |publisher=MTV. [[MTV Networks]] |access-date=December 1, 2012 |page=2 |url-status=dead |archive-url=https://web.archive.org/web/20121213224729/http://www.mtv.com/bands/archive/m/madonna/insidemad/index.jhtml |archive-date=December 13, 2012}}</ref> Orbit cũng tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí ''Q'' rằng Madonna thu âm "Swim" vào ngày người bạn của cô và là nhà thiết kế thời trang [[Gianni Versace]] bị sát hại ở Miami, Florida. Ông nhận xét rằng đây có lẽ là lý do tại sao bài hát có tác động lớn về mặt cảm xúc.<ref name="qmag"/>
 
==Danh sách bài hát==
Hàng 222 ⟶ 237:
|align="center"|1
|-
|align="left"|Cộng Hòa Séc ([[IFPI|ČNS IFPI]])<ref>{{chú thích web|url=http://www.americanradiohistory.com/Archive-Music-and-Media/90s/1998/MM-1998-03-28.pdf|title=Top National Sellers|workmagazine=''Music & Media''|accessdate=ngày 20 tháng 9 năm 2017}}</ref>
|align="center"|2
|-
Hàng 228 ⟶ 243:
|align="center"|2
|-
{{album chart|Netherlands|1|artist=Michael JacksonMadonna|album=HIStory: Past, Present And Future -Ray Bookof ILight|accessdate=ngày 12 tháng 10 năm 2015}}
|-
|align="left"|Châu Âu ([[European Top 100 Albums|Top 100]])<ref name="Europe">{{chú thích web|url=http://www.americanradiohistory.com/Archive-Billboard/90s/1998/BB-1998-03-28.pdf|title=Hits of the World|work=Billboard |accessdate=ngày 26 tháng 5 năm 2017 }}</ref>
Hàng 261 ⟶ 276:
|{{Album chart|Norway|1|artist=Madonna|album=Ray of Light}}
|-
|align="left"|Bồ Đào Nha ([[Associação Fonográfica Portuguesa|AFP]])<ref>{{chú thích web|url=http://www.americanradiohistory.com/Archive-Music-and-Media/90s/1998/MM-1998-03-21.pdf|title=Top National Sellers|workmagazine=''Music & Media''|accessdate=ngày 20 tháng 9 năm 2017}}</ref>
|align="center"|6
|-
Hàng 285 ⟶ 300:
!Vị trí
|-
|align="left"|Austrian Albums (Ö3 Austria)<ref>{{chú thích web|url=http://austriancharts.at/90er_album.asp|title=Best-selling Albums|language=Đức|work=''Austriancharts.at''|publisher=Hung Medien|accessdate=ngày 14 tháng 12 năm 2010}}</ref>
|30
|}
Hàng 302 ⟶ 317:
|align="center"|7
|-
|align="left"|Belgian Albums (Ultratop Flanders)<ref>{{chú thích web|url=http://www.ultratop.be/nl/annual.asp?year=1998&cat=a|title=Jaaroverzichten 1998|publisher=Ultratop|language=DutchHà Lan|accessdate=ngày 13 tháng 10 năm 2015}}</ref>
|align="center"|5
|-
Hàng 314 ⟶ 329:
|align="center"|5
|-
|align="left"|Europe (European Top 100 Albums)<ref>{{chú thích web|url=http://www.americanradiohistory.com/Archive-Music-and-Media/90s/1998/MM-1998-12-19.pdf|title=European Top 100 Albums 1998|workmagazine=''Music & Media''|accessdate=ngày 20 tháng 9 năm 2017}}</ref>
|align="center"|3
|-
|align="left"|Dutch Albums (MegaCharts)<ref>{{chú thích web|url=http://dutchcharts.nl/jaaroverzichten.asp?year=1998&cat=a |title=Jaaroverzichten - Album 1998 |publisher=Hung Medien |language=DutchHà Lan |accessdate=ngày 13 tháng 10 năm 2015 }}</ref>
|align="center"|4
|-
Hàng 329 ⟶ 344:
|align="center"|15
|-
|align="left"|Japanese Albums (Oricon)<ref name="jpend1">{{chú thích web|url=http://www.geocities.jp/object_ori/1998a.html|title=1998年 アルバム年間TOP100|publisher=Oricon|language=JapaneseNhật|accessdate=ngày 13 tháng 10 năm 2015}}</ref>
|align="center"|94
|-
Hàng 365 ⟶ 380:
|align="center"|21
|-
|align="left"|Belgian Albums (Ultratop Flanders)<ref>{{chú thích web|url=http://www.ultratop.be/nl/annual.asp?year=1999&cat=a|title=Jaaroverzichten 1999|publisher=Ultratop|language=DutchHà Lan|accessdate=ngày 13 tháng 10 năm 2015}}</ref>
|align="center"|55
|-
Hàng 374 ⟶ 389:
|align="center"|42
|-
|align="left"|Dutch Albums (MegaCharts)<ref>{{chú thích web|url=http://dutchcharts.nl/jaaroverzichten.asp?year=1999&cat=a |title=Jaaroverzichten - Album 1999 |publisher=Hung Medien |language=DutchHà Lan |accessdate=ngày 13 tháng 10 năm 2015 }}</ref>
|align="center"|19
|-
|align="left"|Europe (European Top 100 Albums)<ref>{{chú thích web|url=http://www.americanradiohistory.com/Archive-Music-and-Media/00s/2000/MM-2000-01-01.pdf|title=European Top 100 Albums 1999|work=''Music & Media''|accessdate=ngày 20 tháng 9 năm 2017}}</ref>
|align="center"|11
|-
Hàng 398 ⟶ 413:
!Vị trí
|-
|align="left"|UK Albums (OCC)<ref>{{chú thích web |url=http://uktop40.republika.pl/najlep%20sprzalbumy%20uk%202000.html |title=Najlepiej sprzedające się albumy w W.Brytanii w 2000r |language=PolishBa Lan |publisher=Z archiwum...rocka |accessdate=ngày 28 tháng 7 năm 2014 |url hỏng=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20120927004929/http://uktop40.republika.pl/najlep%20sprzalbumy%20uk%202000.html |archivedate = ngày 27 tháng 9 năm 2012}}</ref>
|align="center"|115
|-
Hàng 409 ⟶ 424:
|}
{{col-end}}
 
===Thành công trên bảng xếp hạng===
{{s-start}}
{{succession box
| before = ''[[Titanic (nhạc phim)|Titanic]]'' (nhạc phim) của [[James Horner]]
| title = Album quán quân tại Vương quốc Anh
| years = 14 tháng 3 - 27 tháng 3 năm 1998
| after = ''[[Let's Talk About Love]]'' của [[Céline Dion|Celine Dion]]
}}
{{succession box
| before = ''[[Yield (album)|Yield]]'' của [[Pearl Jam]]
| title = Album quán quân tại Úc
| years = 15 tháng 3 - 21 tháng 3 năm 1998
| after = ''[[Mezzanine (album)|Mezzanine]]'' của [[Massive Attack]]
}}
{{end}}
 
==Chứng nhận==
{{Certification Table Top }}
{{Certification Table Entry|type=album|title=Ray of Light|artist=Madonna|relyear=1998|region=Argentina|award=Bạch kim|autocat=yes| certref=<ref>{{chú thích web|archiveurl=https://web.archive.org/web/20110706084844/http://www.capif.org.ar/Default.asp?PerDesde_MM=0&PerDesde_AA=0&PerHasta_MM=0&PerHasta_AA=0&interprete=&album=&LanDesde_MM=1&LanDesde_AA=1980&LanHasta_MM=12&LanHasta_AA=2010&Galardon=O&Tipo=1&ACCION2=+Buscar+&ACCION=Buscar&CO=5&CODOP=ESOP|archivedate = ngày 6 tháng 7 năm 2011 |url=http://www.capif.org.ar/Default.asp?PerDesde_MM=0&PerDesde_AA=0&PerHasta_MM=0&PerHasta_AA=0&interprete=&album=&LanDesde_MM=1&LanDesde_AA=1980&LanHasta_MM=12&LanHasta_AA=2010&Galardon=O&Tipo=1&ACCION2=+Buscar+&ACCION=Buscar&CO=5&CODOP=ESOP|title=Disos de Oro y Platino|publisher=CAPIF|ngày truy cập=2015-09-18|url hỏng=no}}</ref> }}
{{Certification Table Entry|region=Australia|title=Ray of Light|artist=Madonna |type=album|award=Bạch kim|number=3|relyear=1994| certref=<ref name="aria">{{chú thích web|url=http://www.aria.com.au/pages/aria-charts-accreditations-albums-1999.htm|title=ARIA Charts – Accreditations – 1999 Albums|publisher=[[Australian Recording Industry Association]]|accessdate=ngày 10 tháng 8 năm 2008}}</ref>|autocat=yes}}
Hàng 435 ⟶ 434:
{{Certification Table Entry|type=album|title=Ray of Light|artist=Madonna|relyear=1998|region=Finland|award=Bạch kim|autocat=yes|salesamount=50,604|accessdate=ngày 17 tháng 8 năm 2010}}
{{Certification Table Entry|region=France|title=Ray of Light|artist=Madonna |type=album|award=Bạch kim|number=3|certyear=2001|relyear=1998||salesamount=925,400|salesref=<ref>{{chú thích web|url=http://www.infodisc.fr/CDCertif_P3.php?debut=50|title=Les Albums Triple Platine|publisher=[[Syndicat National de l'Édition Phonographique]]|accessdate=ngày 30 tháng 11 năm 2010|language=Pháp|archive-date=2011-12-23|archive-url=https://web.archive.org/web/20111223203021/http://www.infodisc.fr/CDCertif_P3.php?debut=50}}</ref>|autocat=yes}}
{{Certification Table Entry|region=Germany|title=Ray of Light|artist=Madonna |type=album|award=Bạch kim|number=3|relyear=1998|certref=<ref name="german ifpi">{{cite certification|region=Germany|title=Ray of Light|accessdate=ngày 10 tháng 8 năm 2008}}</ref>|autocat=yes}}
{{Certification Table Entry|region=Hong Kong|type=album|artist=Madonna|title=Ray of Light|award=Bạch kim|relyear=1998|certref=<ref name="IFPI Hong Kong">{{chú thích web|url=http://www.ifpihk.org/www_1/go2e.php|archiveurl=https://web.archive.org/web/20120206033028/http://www.ifpihk.org/www_1/go2e.php|title=International Platinum Disc|editor=|publisher=[[IFPI|IFPI Hong Kong]]|archivedate = ngày 6 tháng 2 năm 2012 |accessdate=ngày 31 tháng 1 năm 2013|url hỏng=yes}}</ref>|certyear=1998|autocat=yes}}
{{Certification Table Entry|type=album|title=Ray of Light|artist=Madonna|relyear=1998|region=Japan|award=Bạch kim|number=2|certref=<ref name="riaj">{{chú thích web|url=http://www.riaj.or.jp/issue/record/1998/199807.pdf|format=PDF|title=The Record – レイ・オブ・ライト|date=July 1998|publisher=[[Recording Industry Association of Japan]]|accessdate=ngày 27 tháng 1 năm 2014}}</ref>|autocat=yes }}