Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trữ quân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
A1Cafel (thảo luận | đóng góp)
Thẻ: Lùi lại thủ công
n sửa lại chỗ yêu cầu hoa, thường
Dòng 1:
[[File:保大帝阮福晪的皇子阮福保隆.jpg|thumb|phải|250px|Vị Trữtrữ quân cuối cùng của lịch sử [[Việt Nam]] - [[Nguyễn Phúc Bảo Long]].]]
'''Trữ quân''' ([[chữ Hán]]: 儲君), hay còn được gọi là '''Tự quân''' (嗣君)<ref>《通典・禮三十一・皇太子監國及會宮臣議》: 時議又疑宮吏之姓與太子名同。子才又謂曰:「按曲禮『大夫士之子,不與嗣君同名。』鄭注云:『若先生之,亦不改。』漢法,天子登位,布名於天下,四海之內,無不咸避。按春秋經『衛石惡出奔在晉』,衛侯衎卒,其子惡始立,明石惡與長子同名。</ref><ref>《龍川別志・卷下》: 太后意稍和,修復進曰:「仁宗在位歲久,德澤在人,人所信服,故一日晏駕,天下稟承遺令,奉戴嗣君,無一人敢異同者。今太后一婦人,臣等五六措大耳,舉足造事,非仁宗遺意,天下孰肯聽從?」</ref>, '''Trữ nhị''' (儲貳)<ref>《清史稿・志六十八》: 皇太子皇子及皇子福晉喪儀皇太子喪儀,有清家法,不立儲貳。至乾隆三年,皇次子永璉薨。高宗諭曰:「永璉為朕嫡子,雖未冊立,已定建儲大計,其典禮應視皇太子行。」</ref>, '''Trữ vị''' (儲位)<ref>《清史稿・志六十三》: 厥後允礽廢立,迄晚年儲位未定。</ref><ref>《清史稿・列傳七十三》: 時上春秋高,皇太子允礽既廢,儲位未定。</ref>, '''Trữ tự''' (储嗣) hoặc '''Quốc bổn''' (國本)<ref>《唐大诏令集・册遂王为皇太子文》:建立儲嗣,崇嚴國本。</ref><ref>《宋史・理宗纪》:景獻太子薨, 寧宗以國本未立,選太祖十世孫年十五以上者教育。</ref>, là cách gọi trung lập tước vị dành cho người đã được chính thức chọn lựa để sau này nối ngôi [[Hoàng đế]] hay [[Quốc vương]] của khối [[Đông Á]].
 
Ở khối Đông Á, do việc cha truyền cho con là căn bản trong pháp luật, nên khi nói đến Trữtrữ quân thì thường liên hệ danh xưng [[Thái tử]] hơn, mặc dù trong thực tế thì "Thái tử" chỉ là tước hiệu mà không phải danh phận. Ở [[Châu Âu]], người kế vị thông thường đều được gọi là '''Heir apparent''', và vấn đề kế vị rất phức tạp theo thể chế kéo theo việc hạn chế về ngôn ngữ, nên họ có những tước hiệu cụ thể để chỉ người thừa kế chắc chắn của mình hơn là những danh xưng phải theo sự phân chia chia vai vế như Đông Á.
 
Cũng như nhau về ý nghĩa và hoàn cảnh, "''Trữ quân''" cùng "''Heir apparent''" đều ám chỉ trung lập về '''một người chắc chắn sẽ kế vị''' mà không bị biến đổi cách gọi do vai vế của người kế vị đối với vị quân chủ. Riêng về vấn đề [[giới tính]], Trữtrữ quân được sinh ra trong môi trường chỉ nhận quyền thừa kế của nam giới, nên không có xảy ra việc phải đổi cách gọi nếu người thừa kế là nữ. Còn từ Heir apparent có thể trở thành "Heiress apparent", với thành tố "''-ess''" điển hình chỉ đến phái nữ.
 
== Khái lược ==
Các người thừa kế, tức ''"Trữ quân"'', đều theo quy tắc ưu tiên nhất là "'''Con kế thừa cha'''", trong đó người thừa kế cần là [[giới tính]] là [[nam giới]]. Quy tắc này tồn tại ở toàn bộ nền quân chủ, từ [[Châu Mỹ]], [[Châu Phi]], [[Châu Á]] đến [[Châu Âu]]. Chỉ có trường hợp cá biệt không theo quy luật này, đều là dựa theo lý do cụ thể của quy tắc tạo nên nền quân chủ ấy. Đặc biệt nhất là những Đế chế lớn ở Châu Âu như [[Đế chế La Mã]] và [[Đế quốc Byzantine]], thì việc kế thừa đa phần đều dựa vào thực lực hơn là quy tắc cha truyền, hoặc [[bầu cử]] giữa các thế lực của [[Thánh chế La Mã]].
 
Dựa theo mỗi chế độ của nhà nước đều có quy tắc thứ tự thừa kế khác nhau. Song ở Châu Âu, quy tắc ''"Ưu tiên con trưởng"'' được đẩy mạnh, có nghĩa nếu người con thừa kế qua đời trước quân chủ và có hậu duệ, thì người hậu duệ ấy vẫn có quyền thừa kế hơn là những người con khác của quân chủ. Quy tắc này được bảo vệ mạnh ở Châu Âu do hệ thống quân chủ có xu hướng [[quân chủ phân quyền]], bị ảnh hưởng bởi pháp luật rất trật tự và có sự ràng buộc bởi [[tôn giáo]]. Trong khi ấy, ở những nền [[quân chủ chuyên chế]] khác như [[Đông Á]] hoặc [[Nam Á]], quan niệm ''"cha truyền con nối"'' lại có chiều hướng đúng về ý nghĩa, khi người thừa kế qua đời, thì người con nhỏ hơn của quân chủ sẽ có cơ hội trở thành thừa kế, dù người thừa kế vừa qua đời vẫn còn hậu duệ đi nữa.
 
== Trữtrữ quân ở Đông Á ==
=== Các tên gọi ===
Bởi vì người thừa kế thường là con trai của vị Vua chúa đang trị vì, nên địa vị ''"Trữtrữ quân"'' tại khối quốc gia Đông Á thường được liên hệ qua tước hiệu, tức là [[Thái tử]] hoặc [[Thế tử]]. Tuy nhiên, người kế vị không nhất thiết lúc nào cũng là con trai của vị vua đang trị vì, mà có thể là chú bác hoặc cháu nội, hoặc là nhánh '''Nam duệ''' (男裔) được công nhận. Bởi vì lý do đó tước hiệu biểu hiện vị trí Trữtrữ quân ở Đông Á lại thường phụ thuộc vào thân phận của Trữtrữ quân đối với vị Vua đương triều, thường thấy nhất là dựa theo ba thế hệ:
* Chú của Hoàng đế/ Vương được chọn làm người nối ngôi thì gọi là '''Hoàng thái thúc''' (皇太叔)/ '''Vương thế thúc''' (王世叔).
* Em của Hoàng đế/ Vương được chọn làm người nối ngôi thì gọi là '''Hoàng thái đệ''' (皇太弟)/ '''Vương thế đệ''' (王世弟).
* Cháu nội Hoàng đế/ Vương được chọn làm người nối ngôi thì gọi là '''Hoàng thái tôn''' (皇太孫)/ '''Vương thế tôn''' (王世孫).
 
Những cách gọi như thế nào cũng còn tùy chế độ cụ thể chứ không hoàn toàn bị bó buộc chỉ mấy trường hợp. Nếu bỏ qua xưng hô theo vai vế, vị trí kế vị của một [[Hoàng đế]] được gọi chung là các '''Hoàng trữ''' (皇儲), còn của [[Quốc vương]] gọi là '''Vương trữ''' (王儲). Tuy vậy, họ cũng có thể được gọi là '''Hoàng tự''' (皇嗣) hay '''Vương tự''' (王嗣), trong đó "Tự" có nghĩa là ''"kế thừa"''. Hiện tại, [[hoàng gia Nhật Bản]] công bố [[Fumihito|Thu Tiểu cung Văn Nhân Thân vương]] là Trữtrữ quân cho anh trai mình là Thiên hoàng [[Naruhito]], ông không được gọi là ''"Hoàng thái đệ"'' mà được gọi với tôn xưng trung lập là '''Hoàng tự điện hạ''' (皇嗣殿下; こうしでんか<sup>Koshidenka</sup>).
 
Nền quân chủ Đông Á do không có quy định nữ giới thừa kế ngai vị, cho nên không có cách gọi nào tương đương. Thời kỳ [[Đường Trung Tông]], [[An Lạc công chúa]] Lý Khỏa Nhi vận động cha mình để ngồi lên vị trí Trữtrữ quân và còn tự gọi là '''Hoàng thái nữ''' (皇太女), nhưng sau cùng ý kiến này bị bãi bỏ<ref>《新唐書・卷八十三・諸帝公主》:嘗作詔,箝其前,請帝署可,帝笑從之。又請為皇太女,左僕射魏元忠諫不可,主曰:“元忠,山東木強,烏足論國事?阿武子尚為天子,天子女有不可乎?”</ref>. Tại [[Việt Nam]] cuối thời [[nhà Lý]], khi chỉ định [[Lý Chiêu Hoàng|Chiêu Thánh công chúa]] kế vị, [[Lý Huệ Tông]] chọn danh xưng là Hoàng thái tử (ám chỉ Trữtrữ quân) chứ cũng không dùng danh xưng Hoàng thái nữ. Nguyên văn trong [[Đại Việt sử ký toàn thư]] như sau:"''Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu lập Chiêu Thánh công chúa làm '''Hoàng thái tử''' để truyền ngôi cho''"<ref group = "note">Nguyên văn: 冬十月詔昭聖公主爲'''皇太子'''以傳位。</ref>.
 
=== Quy định lập Trữtrữ quân ===
==== Con kế thừa cha ====
Các quốc gia khối [[Đông Á]] như [[Nhật Bản]], [[Triều Tiên]] và [[Việt Nam]] đều chịu quan niệm lập Trữtrữ quân tương tự [[Trung Quốc]], đó là ưu tiên chọn phương thức "''Con kế thừa cha''", hơn nữa người con trai ấy thường là con trưởng xét theo thứ tự. Con gái về luật pháp không có quyền thừa kế ngai vị, tuy không ít các trường hợp ở cả ba quốc gia này có xuất hiện [[Nữ hoàng]] hoặc [[Nữ vương]], thế nhưng việc nữ kế thừa phần nhiều là trường hợp cá biệt cụ thể hơn là một hệ thống thừa kế cố định.
 
Xã hội Trung Quốc cổ đại có chế độ kế tục gọi là '''Đích trưởng tử kế thừa chế''' (嫡長子繼承製), hay [[tiếng Anh]] gọi là "'''Primogeniture'''". Theo phương pháp này thì người con trai lớn nhất của vợ cả ([[Hoàng hậu]], [[Vương hậu]], [[Vương phi]]) được ưu tiên lập làm Trữtrữ quân. Tại quan niệm tông pháp ở Đông Á, vợ cả và các vợ lẽ nàng hầu (tức [[thiếp]]) có địa vị khác biệt, con trai của vợ cả đều được gọi là "'''Đích tử'''" (嫡子), trong đó những người con trai trưởng vợ cả được gọi là [[Đích trưởng tử]]. Trong khi đó, con trai do [[phi tần]] sinh ra đều ngang với con của vợ lẽ, đều được gọi là "'''Thứ tử'''" (庶子)<ref group = "note">Nguyên bản tiếng Anh của cụm "'''Primogeniture'''" chỉ có nghĩa là ''"Con cả kế thừa"'', bởi vì xã hội Châu Âu không có chế độ tỳ thiếp.</ref>. Tuy nhiên, quy tắc ''"Đích trưởng tử kế thừa"'' này đôi khi cũng có triều đại không tuân theo, vì càng về sau thì trường hợp Đích tử còn sống đến khi vị Vua qua đời ngày càng ít, do vậy cũng lại có xuất hiện tình trạng Thứ tử lớn nhất - tức "'''Thứ trưởng tử'''" (庶長子) - được chọn làm Trữtrữ quân.
 
Trong lịch sử Đông Á thường ưu tiên lập Đích trưởng tử làm Trữtrữ quân, thế nhưng cũng không thiếu việc Trữtrữ quân lại là Thứ tử. Thân phận Thứ tử được chọn kế vị vẫn luôn dễ dàng gây mâu thuẫn, bởi vì ngay trong Nho giáo cũng có hai chủ trương:
* '''Lập Đích lập Trưởng''' (立嫡立長): xuất phát từ [[:zh:公羊传|Công Dương truyện]], từ câu "''Lập Đích dĩ Trưởng bất dĩ Hiền"'' (立嫡以長不以賢)<ref name = "CDT">《春鞦公羊傳・隱公元年》: 隱長又賢,何以不宜立?立嫡以長不以賢,立子以貴不以長。桓何以貴?母貴也。母貴則子何以貴?子以母貴,母以子貴。何休註:“子,謂左右媵及姪娣之子,位有貴賤,又防其同時而生,故以貴也。</ref>. Câu này ý nói cùng là Đích tử, thì ngôi Trữtrữ quân nên chọn Đích trưởng tử đảm nhiệm chứ không nên xem ai hiền năng hay không. Điều này phần nhiều xuất phát từ quan niệm ''"Huynh trưởng như cha"'' (長兄為父) trong đại đa số các quốc gia Đông Á. Bởi vì từ ''"lập Đích"'' cũng có nghĩa ''"lập Trữ"'', các triều đại sau thường chọn Thứ trưởng tử trong trường hợp không có Đích tử;
* '''Lập Tử dĩ Quý bất dĩ Trưởng''' (立子以貴不以長): cũng xuất phát từ Công Dương truyện, câu này ý rằng nếu Đích tử không có mà phải chọn Thứ tử, thì nên chọn Thứ tử có mẹ xuất thân cao quý, không nên chỉ chọn Thứ trưởng tử. Điều này dựa vào quy tắc ''"Tử dĩ Mẫu quý"'' (子以母貴)<ref name = "CDT"></ref>, cho nên cũng có chuyện để Thứ tử nhận người vợ cả làm mẹ, từ đó luận ''"Tử dĩ Mẫu quý"'' để được lập làm Trữtrữ quân.
* Ngoài ra còn có quan niệm '''Lập Tử dĩ Hiền''' (立子以賢), tức trong các Thứ tử thì nên chọn người hiền, hoặc không phân Đích tử và Thứ tử mà chỉ chọn người hiền. Lại có quan niệm '''Lập Trữ dĩ Ái''' (立儲以愛), hoàn toàn dựa vào việc yêu thương của Vua chúa dành cho con trai mà chọn Trữtrữ quân, không cần xét thứ tự hay tài năng;
 
Tại các triều đại xem trọng vị thứ như [[nhà Hán]], [[nhà Đường]] và đến tận [[nhà Minh]], mặc dù các luật hôn nhân đều xem trọng dòng Đích tử tôn trong vấn đề thừa kế, thế nhưng đại đa số việc lập Trữtrữ quân đều áp dụng Đích trưởng tử kế thừa, nếu như không có Đích tử trong cung thì đều là Thứ trưởng tử kế thừa, rất ít trường hợp ngoại lệ khác. Bởi vì thân phận các hoàng tử và vương tử vốn tôn quý, rất nhiều triều đại khi không có Đích tử thì vẫn dễ dàng chọn Trưởng tử hoặc Thứ tử có khả năng, thậm chí còn có trường hợp chọn lập Trữtrữ quân bỏ qua thứ bậc được sử sách gọi là '''Phế trưởng lập ấu''' (廢長立幼).
 
Từ triều Hán làm ví dụ, đã sớm hình thành chuyện "''Đích tử không có thì chọn Trưởng tử''" để quyết định ai làm Trữtrữ quân, mà [[Hán Cảnh Đế]] Lưu Khải là trường hợp đầu tiên: Phế Thái tử [[Lưu Vinh (Lâm Giang vương)|Lưu Vinh]] vốn là ''"Thứ trưởng tử"'' khi [[Bạc hoàng hậu (Hán Cảnh Đế)|Bạc Hoàng hậu]] không con, còn [[Hán Vũ Đế]] Lưu Triệt lại là ''"Đích trưởng tử"'' được chọn làm Trữtrữ quân thay thế. Về sau có trường hợp [[Hán Chương Đế]] Lưu Đát, nhưng khi ấy Lưu Đát được xem là con của [[Minh Đức Mã Hoàng hậu]] nên cũng được xem là trường hợp ''"Đích trưởng tử"'' vậy. Cũng trong triều Hán, trường hợp [[Hán Chiêu Đế]] Lưu Phất Lăng được lập có lẽ là ''"Lập Tử dĩ Quý"'' điển hình, vì trên Chiêu Đế còn hai anh trai là Yên vương [[Lưu Đán]] cùng Quảng Lăng vương [[Lưu Tư (Tây Hán)|Lưu Tư]], nhưng vì hai Vương này hành vi kiêu căn lỗ mãng mà không được ý của Vũ Đế<ref>《漢書・卷七・昭帝紀》: 武帝末,戾太子 敗,燕王旦、廣陵王胥行驕嫚,後元二年二月上疾病,遂立昭帝為太子,年八歲。</ref>. Ngoài ra dưới thời Hán Chương Đế, việc [[Lưu Khánh (Đông Hán)|Lưu Khánh]] được lập làm Thái tử cũng là một trường hợp ''"Lập Tử dĩ Quý"'' điển hình, vì trên Lưu Khánh còn có 2 người anh trai, Lưu Khánh cũng không có thân phận được mẹ cả là [[Đậu hoàng hậu (Hán Chương Đế)|Đậu Hoàng hậu]] nuôi dưỡng, trong khi đó người mẹ là [[Tống quý nhân (Hán Chương Đế)|Tống Quý nhân]] có quan hệ bà con với Mã Thái hậu. Triều đại nhà Đường tương đối có nhiều trường hợp phá quy tắc, như [[Đường Cao Tông]] Lý Trị vì hai anh trai là [[Lý Thừa Càn]] cùng [[Lý Thái]] bị truất mà được lập<ref>《舊唐書・本紀第四・高宗上》: 十七年,皇太子承乾廢,魏王泰亦以罪黜,太宗與長孫無忌、房玄齡、李勣等計議,立晉王為皇太子。</ref>, đặc biệt nhất là có trường hợp [[Đường Huyền Tông]] Lý Long Cơ vốn chỉ là Thứ tử, nhưng vì có công bình định chính biến mà ''"Có được Thánh đức"'' nên được chọn làm Thái tử, thay thế người anh cả Đích trưởng tử là [[Lý Thành Khí]]<ref>《舊唐書・本紀第八・玄宗上》: 睿宗即位,與侍臣議立皇太子,僉曰:「除天下之禍者,享天下之福;拯天下之危者,受天下之安。平王有聖德,定天下,又聞成器已下咸有推讓,宜膺主鬯,以副群心。」睿宗從之。</ref>. Lại có trường hợp [[Đường Mục Tông]] tương đối đặc biệt, ông vốn là con thứ ba của [[Đường Hiến Tông]] và sinh mẫu ông [[Quách Thái hậu (Nhà Đường)|Quách Quý phi]] - nguyên phối của Hiến Tông, song Quách thị không được lập làm Hoàng hậu do vậy Mục Tông không có thân phận ''"Đích trưởng tử"'', thay vào đó người anh cả khác mẹ của ông là [[Lý Ninh (Đường Hiến Tông)|Lý Ninh]] được chọn làm Thái tử. Sau khi Lý Ninh qua đời, Mục Tông mới được chọn làm Thái tử. Sau đó, [[Đường Văn Tông]] Lý Hàm đăng cơ sau khi anh trai [[Đường Kính Tông]] Lý Đam bị hại, con trai [[Lý Vĩnh]] chết đi, Văn Tông lại cho lập con trai của Kính Tông là [[Lý Phổ]] làm Thái tử<ref>《资治通鉴・卷二百四十四》:冬,十月,甲子,立鲁王永为太子。初,上以晋王普,敬宗长子,性谨愿,欲以为嗣。会薨,上痛惜之,故久不议建储,至是始行之。</ref>. Từ sau Văn Tông, các vị hoàng đế triều Đường đều bị phế bị lập vì các [[hoạn quan]] cùng quyền thần, việc chọn Trữtrữ quân cũng không còn diễn ra, hoặc chỉ là cho có lệ. Triều đại [[nhà Tống]] có quy tắc [[Nho giáo]] chặt chẽ nên thường áp dụng ''"Đích trưởng tử thừa kế"'' cùng ''"Thứ trưởng tử thừa kế"'', dù cũng có trường hợp ngoại lệ như [[Triệu Nguyên Tá]], con cả của [[Tống Thái Tông]] Triệu Quang Nghĩa và là anh cùng mẹ với [[Tống Chân Tông]] Triệu Hằng, bởi vì ''"Điên loạn"'' mà bị phế làm thứ dân, nên cũng mất quyền thừa kế.
 
Triều đại [[nhà Nguyên]] được xem là không có chính sách truyền vị điển hình, do căn cơ của họ thành lập từ liên minh các Đại bộ tộc Mông Cổ và dựa vào Đại hội [[Hốt lý lặc thai]] để chọn người thủ lĩnh. Kế nhiệm Mông Cổ Đế quốc là [[Hốt Tất Liệt]] vì không thông qua đại hội này mà Hãn vị của ông tại Mông Cổ gây tranh chấp. Sau khi thành lập triều Nguyên tại Trung nguyên, Hốt Tất Liệt cố ý lập con trai Đích trưởng tử là [[Chân Kim]] làm Hoàng thái tử, hi vọng áp dụng chế độ người Hán để định thế cục ''"Cha chết con nối"'' đối với chính thể triều Nguyên. Nhưng sau đó Chân Kim qua đời, các đời sau liền có trường hợp Thái tử mất sớm rồi anh em tranh vị, thế cục truyền vị ổn định mà Hốt Tất Liệt mong muốn không thể thực hiện. Trung kỳ triều Nguyên có '''Vũ Nhân chi ước''' (武仁之約), quy định hai hệ [[Nguyên Vũ Tông]] Hải Sơn cùng [[Nguyên Nhân Tông]] Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt thay nhau kế vị ngai vàng, sau đó Nhân Tông huỷ bỏ hiệp định mà chính trường triều Nguyên lần thứ hai bước vào hỗn loạn<ref>《中國通史 宋遼金元史》〈第五章 蒙古興起與大元帝國-草原民族的統一中國: 第81頁-第114頁.</ref>.
Dòng 56:
Thời [[nhà Minh]] có lẽ là triều đại quy định văn bản rõ ràng nhất trong quy tắc thừa kế. Theo [[:zh:皇明祖訓|Hoàng Minh tổ huấn]] quy định:"''Phàm triều đình không có hoàng tử, thì theo quy tắc em kế thừa anh. Cần lập người do Đích mẫu sinh ra, nếu phải chọn do Thứ mẫu sinh thì cần chọn con trưởng''"<ref group = "note">Nguyên văn:「凡朝廷无皇子,必兄终弟及,须立嫡母所生者。庶母所生,虽长不得立。」</ref>. Xét trong lịch sử, ngoại trừ sự kiện [[Minh Đại Tông]] Chu Kỳ Ngọc lên ngôi thay anh và '''Quốc bổn chi tranh''' (國本之爭) thời [[Minh Thần Tông]] Chu Dực Quân, thì nhìn chung nhà Minh chấp hành rất nghiêm túc tổ huấn. Sự kiện ''"Quốc bổn chi tranh"'' là một chuyện đặc biệt của triều Minh, bởi vì Hoàng hậu của Thần Tông không con mà Hoàng tử [[Minh Quang Tông|Chu Thường Lạc]] là "Thứ trưởng tử", theo Tổ huấn thì đáng được lập, nhưng Thần Tông thích Hoàng tam tử [[Chu Thường Tuân]].
 
Triều đại [[nhà Thanh]] vốn ngay từ đầu đều không có chỉ định Trữtrữ quân, nên hai đời [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]] cùng [[Hoàng Thái Cực]] mới xảy ra đủ loại tranh đấu chính trị. Sau khi nhập quan, [[Thuận Trị Đế]] dùng hình thức ''"Di chiếu"'', lập con trai thứ ba là Hoàng tam tử Huyền Diệp (tức [[Khang Hi Đế]]) làm Hoàng thái tử khi lâm chung<ref>《清史稿・本紀五・世祖本紀二》: 十八年春正月壬子,上不豫。丙辰,大漸。赦死罪以下。丁巳,崩於養心殿,年二十四。遺詔曰:「。。。朕子玄燁,佟氏妃所生,岐嶷穎慧,克承宗祧,茲立為皇太子。」</ref>. Sau đó, Khang Hi Đế phá vỡ truyền thống của cha ông, tự mình chọn lập Nhị a ca [[Dận Nhưng]] làm Thái tử ngay từ nhỏ, cũng là trường hợp duy nhất. Sau thời [[Ung Chính Đế]], triều đình đã áp dụng cách của Thuận Trị Đế khi trước, lập ra một chế độ dự bị Trữtrữ quân được gọi là '''Bí mật kiến Trữ chế''' (秘密建儲制). Lúc này vị Vua sẽ luận ''"Đức hạnh"'' và ''"Tài năng"'' trong các hoàng tử để lập làm Trữtrữ quân. Theo như truyền thống này, hoàng đế trước khi qua đời sẽ đem người được chọn làm Hoàng thái tử viết vào di chiếu, để sau bức biển ''"Chính Đại Quang Minh"'' (正大光明) trong [[Cung Càn Thanh]]. Khi hoàng đế qua đời, các Cố mệnh Đại thần sẽ lấy di chiếu ra công bố thiên hạ. Ngoại trừ sự kiện [[Càn Long Đế]] tiến hành [[thiện nhượng]] cho [[Gia Khánh Đế]], thì triều Thanh từ Ung Chính Đế đến tận [[Hàm Phong Đế]] đều áp dụng chế độ này, sau đó [[Các lần lập Tự của nhà Thanh|chỉ lập Tự]] vì không còn hoàng tử.
 
Ở các quốc gia ảnh hưởng Trung Quốc như Việt Nam, Nhật Bản cùng Triều Tiên, quy tắc "''Con kế thừa cha''" vẫn thường là quy tắc chuẩn mực nhất, thế nhưng đôi khi tùy tình huống đặc biệt mà có biến động. Tại Nhật Bản, trước khi có [[Danh sách kế vị ngai vàng hoàng gia Nhật Bản|quy tắc chuẩn mực từ ''"Hiến pháp"'']], thì quy luật lập Trữtrữ quân của hoàng gia Nhật tương đối hỗn loạn. Lấy ví dụ từ tận [[thời Heian]], có trường hợp [[Thiên hoàng Saga]] được cha mình là [[Thiên hoàng Kanmu]] chỉ định làm Trữtrữ quân tiếp theo và được viết vào ''"Di chiếu"'', nên anh trai ông là [[Thiên hoàng Heizei]] mới chịu lập làm Hoàng thái đệ, sau đó Thiên hoàng Saga lại quyết định lập con trai của anh mình là [[:jp:高岳親王|Cao Nhạc Thân vương]] làm Hoàng thái tử trước khi xảy ra [[biến cố Kusuko]]. Sau đó, Thiên hoàng Saga lại lập em trai khác mẹ [[Thiên hoàng Junna|Đại Bạn Thân vương]] làm Hoàng thái đệ, rồi sau khi nhượng vị thì Saga lại để cho con trai của chính mình (tức [[Thiên hoàng Ninmyō]]) làm Thái tử cho em trai, cứ vậy tiếp tục đời sau.
 
Tại Triều Tiên cùng Việt Nam, quy tắc ''"Con kế thừa cha"'' tương đối nghiêm ngặt. Còn phương pháp chọn ''"Đích"'', ''"Trưởng"'' hay ''"Hiền"'', trong khi Triều Tiên án theo triều Minh mà thực hiện thứ tự Đích-thứ rất nghiêm khắc, thế nhưng các triều Việt Nam thì lại tương đối nhiều biệt lệ. Triều đại [[nhà Đinh]] và [[Tiền Lê]] căn bản đều theo ý của hoàng đế, cá biệt [[nhà Lý]] có biểu hiện của việc ''"Bí mật lập Trữ"'' mà nhà Thanh thực hiện, như trong [[Đại Việt sử ký toàn thư]] cũng trích lời [[Lê Văn Hưu]] nói về vấn đề này:"''Nhà Lý phong cho các con mẹ đích đều làm tước Vương, các con mẹ thứ đều làm hoàng tử mà không đặt ngôi Hoàng thái tử. Đến khi nào vua ốm nặng mới chọn một người trong các con cho vào để nối nghiệp lớn. Truyền dần thành tục, không biết là ý thế nào''". Sang đến [[nhà Trần]], cả 4 đời hoàng đế đầu đều án theo "Đích trưởng tử kế thừa", như việc [[Trần Minh Tông]] suýt nhường cho con trai của mẹ đích là [[Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng hậu]]{{NoteTag|Câu chuyện cụ thể như sau:
Dòng 87:
Còn tại Nhật Bản, nền quân chủ mấy nghìn năm này tuy có thời gian bị khống chế bởi người [[họ Fujiwara]] và [[Mạc phủ]], song cơ bản vẫn tôn trọng quy tắc cha truyền cho con nếu có thể cho gia đình [[Thiên hoàng]], cho nên nếu Thiên hoàng không con thì có thể lấy con cháu của dòng khác làm '''Dưỡng tử''' (養子) để truyền ngôi. Vai vế của bản thân Thiên hoàng với người thừa kế trong lịch sử là một dạng địa vị, bởi vì Nhật Bản không có chế độ Tông miếu Từ đường giống như ba quốc gia đồng văn còn lại nên chuyện xưng hô Tông phái không phải là vấn đề mấu chốt, việc này khiến ''"Vai vế người kế vị"'' của Thiên hoàng lại có ảnh hưởng quyền lợi trực tiếp của Thiên hoàng.
 
Trong suốt chế độ '''Viện chính''' (院政; ''Cloistered rule'') của thời kỳ Heian, nhằm bảo vệ '''Phụ quyền''' (父権) của các Thiên hoàng sau khi đã thoái vị, các anh em trai của Thiên hoàng cũng có thể trở thành ''"Dưỡng tử"'' của đương nhiệm Thiên hoàng và được chọn làm Trữtrữ quân với danh xưng Hoàng thái tử. Việc này giúp vị Thiên hoàng thoái vị ấy thông qua ''"Phụ quyền"'' mà vẫn giữ địa vị tuyệt đối với tư cách ''"Cha của Vua"'', từ đây mới có đủ danh phận để khống chế triều chính. Ví dụ sự việc ''"Dưỡng tử"'' là em của Thiên hoàng chính là trường hợp của [[Thiên hoàng Sutoku]]. Khi ấy Sutoku bị cha là [[Thiên hoàng Toba]] bức ép thoái vị nhằm để con trai sủng phi của Toba là [[Thiên hoàng Konoe|Thể Nhân Thân vương]] lên ngôi. Trước đó, Thiên hoàng Sutoku đã đem em trai khác mẹ Thể Nhân Thân vương vào cung và cho Trung cung của ông nuôi làm ''"Dưỡng tử"'', do đó Sutoku danh chính ngôn thuận lập em trai làm Hoàng thái tử thừa kế của mình. Nhưng trong chiếu thư thoái vị của Thiên hoàng Sutoku được soạn bởi Thiên hoàng Toba, Thể Nhân Thân vương lại được tuyên bố là ''"Hoàng thái đệ"'', tức lấy danh nghĩa là ''"em trai"'' mà không phải ''"con trai"'' để lên ngôi, hoàn toàn trái mong muốn của Thiên hoàng Sutoku. Cùng là vấn đề xưng hô, nhưng mối quan tâm của Nhật Bản lại là quyền lợi có được từ xưng hô, chứ không phải là quy tắc tôn xưng vai vế trong Tông miếu. Việc Tân nhiệm Thiên hoàng là "Hoàng đệ" đã dẫn đến việc Thiên hoàng Sutoku hoàn toàn không có chính danh để tiến hành ảnh hưởng lên Tân nhiệm Thiên hoàng và cha của hai người, Thiên hoàng Toba, khi ấy tiếp tục nắm giữ đại quyền.
 
==== Trường hợp kế nhiệm khác ====
[[File:Emperor_Go-Kameyama.jpg|thumb|trái|222px|Hi Thành Thân vương, ''"Hoàng thái tử"'' dưới thời anh trai [[Thiên hoàng Chōkei]], sau lên ngôi thành [[Thiên hoàng Go-Kameyama]].]]
Ngoài quy tắc "''Con kế thừa cha''", rất nhiều nền quân chủ vì đủ loại lý do mà cũng hình thành các lệ truyền ngôi hoặc lập Trữtrữ quân khác, trong đó đáng kể nhất là để cho người kế thừa thuộc thân phận: '''Đồng bối''' (同輩; "anh em trai"), '''Trưởng bối''' (長輩; "chú bác") và '''Vãn bối''' (晚輩; "cháu chắt"). Trong đó, hai phương thức chọn "Đồng bối" và "Trưởng bối" thường gây tranh cãi dữ dội nhất, chủ yếu vì sẽ khiến hệ thống truyền vị xảy ra hỗn loạn.
 
Từ tận thời kỳ [[Tam Đại (lịch sử Trung Quốc)|Tam Đại]], bên cạnh ''"Con kế thừa cha"'' thì ngai vị cũng có lệ '''Huynh chung đệ cập''' (兄终弟及), tức anh chết thì em trai kế thừa, nguyên nhân của việc này thông thường là khi các con của vị Vua đang trị vì còn quá nhỏ, hoặc là vị Vua ấy không có con cháu. Từ thời [[Trọng Đinh]] của [[nhà Thương]], anh chết em kế tục diễn ra thường xuyên khiến tranh cãi ngai vị rất rắc rối. Từ [[Vũ Đinh]] về sau, tuy cũng còn có việc em trai kế vị thế nhưng từ đây thành lập chế độ con kế thừa cha, [[nhà Chu]] tiếp sau đó cũng tiến hành rạch ròi chế độ truyền vị cha chết con nối. Nhưng dù vậy, ngẫu nhiên cũng có chế độ quân chủ lại chọn anh chết em kế tục, như [[Tống Tuyên công]] nhường cho em trai là [[Tống Mục công]] lên ngôi, gây ra loạn 5 đời của nước Tống. Từ đời Hán trở đi, ''"Anh chết em kế thừa"'' không được khuyết khích, nhưng bản thân triều Hán cũng suýt đi theo vết xe đổ của nước Tống. Khi ấy [[Hán Cảnh Đế]] Lưu Khải dưới áp lực của mẹ là [[Đậu hoàng hậu (Hán Văn Đế)|Đậu Thái hậu]] đã từng có ý định chọn em cùng mẹ là Lương vương [[Lưu Vũ (Lương vương)|Lưu Vũ]] làm Trữtrữ quân, mà Đậu Thái hậu ngoài việc sủng ái Lương vương ra thì còn lấy lý do là Cảnh Đế đã lớn mà các hoàng tử còn nhỏ, không thể đảm việc quốc gia<ref>《史记・魏其 武安侯列传》:是时上未立太子,酒酣,从容言曰:“千秋之後传梁王。”太后驩。窦婴引卮酒进上,曰:“天下者,高祖天下,父子相传,此汉之约也,上何以得擅传梁王!”太后由此憎窦婴。窦婴亦薄其官,因病免。太后除窦婴门籍,不得入朝请。</ref>. Một ví dụ nổi tiếng khác chính là trường hợp của [[Tống Thái Tông]] Triệu Quang Nghĩa. Theo [[Tống sử]], Thái Tông đã dẫn lại lời của mẹ, [[Chiêu Hiến Thái hậu]] Đỗ thị, sợ triều Tống sẽ lại như [[Hậu Chu]] diệt vong là vì ''"Ấu chúa làm Vua"'' nên bắt [[Tống Thái Tổ]] Triệu Khuông Dận chọn em trai kế vị<ref group = "note">Sự kiện gọi là '''Kim quỹ chi minh''' (金匱之盟), đến nay nhiều học giả cho rằng đây là truyền thuyết bịa đặt của người đời sau.</ref>. Đến triều đại nhà Minh, bản thân ''"Hoàng Minh tổ huấn"'' của [[Minh Thái Tổ]] Chu Nguyên Chương cũng chỉ ra:"''Trong cung không có hoàng tử, thì theo lệ huynh chung đệ cập''". Vì lý do này mà khi [[Minh Vũ Tông]] Chu Hậu Chiếu qua đời, em họ ông là [[Minh Thế Tông]] Chu Hậu Thông được rước vào làm ''"Thừa tự"'' cho Đại tông, và Thế Tông đã dựa vào ''"Tổ huấn"'' nói rõ mình kế vị anh họ Vũ Tông với tư cách ''"Em kế thừa anh"'' chứ không phải con thừa tự của [[Minh Hiếu Tông]] Chu Hựu Đường, đây là nguyên nhân dẫn đến ''"Đại lễ nghị"'' nổi tiếng. Danh vị cho trường hợp em trai kế vị, với tiền lệ từ [[Tấn Huệ Đế]] Tư Mã Trung, được gọi là "''Hoàng thái đệ''"<ref>《晉書・卷四・帝紀第四》: 河間王顒表請立成都王穎爲太弟。戊申,詔曰:「朕以不德,纂承鴻緒,于茲十有五載。禍亂滔天,姦逆仍起,至乃幽廢重宮,宗廟圮絕。成都王穎溫仁惠和,克平暴亂。其以穎爲皇太弟、都督中外諸軍事,丞相如故。」大赦,賜鰥寡高年帛三匹,大酺五日。丙辰,盜竊太廟服器。以太尉顒爲太宰,太傅劉寔爲太尉。</ref>, Triều Tiên do vậy cũng đã sử dụng danh xưng '''Vương thế đệ''' (왕세제<sup>Wangseje</sup>) để gọi các Trữtrữ quân là em trai quốc vương.
 
Tại các quốc gia đồng văn khác, việc ''"Anh chết em kế thừa"'' xảy ra đại đa số cũng là các quyết định lâm thời, hầu hết là đủ loại nguyên do cùng cách thức. Triều Trần của Việt Nam là triều đại đầu tiên ghi nhận việc chọn em trai là Trữtrữ quân dưới thời [[Trần Nghệ Tông]], nhưng [[Trần Duệ Tông]] khi ấy được lập làm "Hoàng thái tử" mà không phải "Hoàng thái đệ", chưa rõ Nghệ Tông đối với Duệ Tông có phải vì muốn giữ ''"Phụ quyền"'' mà quyết định như vậy hay không. Sang đến triều Hậu Lê còn có [[Lê Túc Tông]] trước khi lâm chung chọn anh thứ là Hoàng nhị tử Lê Tuấn, tức [[Lê Uy Mục|Vua Uy Mục]], đây là ''"Em chết anh kế thừa"'' hết sức hiếm gặp đồng thời cũng là lâm chung lựa chọn nên không có sách lập chính thức{{NoteTag|Trước khi qua đời, Lê Túc Tông mệnh anh trai là Lê Tuấn lên ngôi, không nói gì về xưng hô:
{{Cquote|Bệnh trẫm chưa khỏi, lo rằng việc phó thác nặng nề e sẽ không kham nổi. Con thứ hai của Tiên Hoàng đế là Tuấn, là người hiển minh, nhân hiếu, có thể nối được ngôi chính thống, để thừa kế tổ tông, vỗ về thân dân. Đại thần và các quan hãy hết lòng trung trinh để giúp nên nghiệp lớn; thân vương nào dám tiếm vượt ngôi trời thì người trong nước cùng nhau giết đi.|||Trích từ ''Đại Việt sử ký toàn thư'' - Túc Tông Khâm Hoàng đế bản kỷ}}}}. Triều đại Triều Tiên của Hàn Quốc chỉ có duy nhất một trường hợp, khi [[Triều Tiên Cảnh Tông|Cảnh Tông]] không con, đã định em trai [[Triều Tiên Anh Tổ|Diên Nhưng quân]] làm Trữtrữ quân để kế thừa Đại thống. Còn tại Nhật Bản, do có chế độ Viện chính từ thời kỳ Heian làm tiền lệ, cộng thêm hoàng quyền ngày một suy thoái, danh hiệu ''"Hoàng thái tử"'' được xem là một địa vị đặc thù của Trữtrữ quân và thông thường danh hiệu này vẫn được giữ nguyên mặt chữ Hán, dù cho người kế vị của Thiên hoàng là em trai như [[Thiên hoàng Go-Kameyama|Hi Thành Thân vương]] thời [[Thiên hoàng Chōkei]], hoặc thậm chí là cháu trai như [[Thiên hoàng Go-Momozono|Anh Nhân Thân vương]] thời [[Thiên hoàng Go-Sakuramachi]].
 
Trường hợp Vua chúa chọn cháu làm Trữtrữ quân, về bản chất là một dạng ''"Con kế thừa cha"'' nên thường không gây tranh cãi lớn. Thông thường đi đến việc chọn cháu làm Trữtrữ quân đều là cháu nội của vị Vua đương triều và là con trai của Trữtrữ quân quá cố, nổi tiếng nhất có trường hợp [[Minh Huệ Đế]] được ông nội Minh Thái Tổ chọn làm kế thừa với danh xưng biểu hiện cho vị trí này là '''Hoàng thái tôn'''<ref>《明史・本紀第四・恭閔帝》: 太祖撫之曰:「而誠純孝,顧不念我乎。」洪武二十五年九月,立為皇太孫。</ref>. Cũng có trường hợp Trữtrữ quân vẫn còn sống mà đã cho con của Trữtrữ quân nhận danh hiệu Trữtrữ quân kế nhiệm, ví dụ như [[Đường Cao Tông]] Lý Trị lập Đích trưởng tôn [[Lý Trọng Nhuận]] làm Hoàng thái tôn, hay như [[Minh Thành Tổ]] Chu Đệ lập Đích trưởng tôn [[Minh Tuyên Tông|Chu Chiêm Cơ]] làm Hoàng thái tôn, dù thân sinh của hai vị Thái tôn này đều còn sống. Ở các quốc gia đồng văn khác, lập con của Trữtrữ quân để làm người kế vị cũng có xảy ra, đặc biệt là một nước trọng ''"Đích-thứ"'' kèm ''"Trưởng tử"'' như nền quân chủ Triều Tiên. Ở Triều Tiên, vấn đề ''"Trưởng tử kế thừa"'' và ''"Con kế thừa cha"'' gắn bó chặt chẽ với nhau. Ban đầu Triều Tiên cũng theo lệ Minh Thành Tổ, sớm định vị hiệu cho người thừa kế của Trữtrữ quân, nên [[Triều Tiên Thế Tông]] cho lập Đích trưởng tôn là [[Triều Tiên Đoan Tông|Lý Hoằng Vĩ]] làm '''Vương thế tôn''' (왕세손<sup>Wangseson</sup>). Từ sau đó, Triều Tiên chỉ quyết định dùng ''"Thế tôn"'' cho vị trí Trữtrữ quân nếu vai vế là cháu nhà vua, như [[Triều Tiên Anh Tổ|Anh Tổ]] chọn Đích tôn [[Triều Tiên Chính Tổ|Lý Toán]]. Tuy nhiên, việc chọn Trữtrữ quân là cháu nội cũng sẽ được suy xét cẩn trọng nếu quốc vương vẫn còn hậu duệ, ví dụ như trường hợp con trai của [[Triều Tiên Thế Tổ|Thế Tổ]] là [[Triều Tiên Đức Tông|Ý Kính Thế tử]] qua đời sớm, và dù Thế tử đã có 2 con trai nhưng Thế Tổ vẫn chọn con thứ là [[Triều Tiên Duệ Tông|Hải Dương Đại quân]] trở thành Thế tử và sau đó đăng cơ. Bên cạnh đó là vấn đề vai vế, Vương thế tôn Lý Toán kế thừa vị trí của Anh Tổ lại lấy tư cách là con của người con cả đã mất trước đó của Anh Tổ, [[Hiếu Chương Thế tử]], mà không lấy tư cách con của cha ruột Tư Điệu Thế tử, cho nên khi Lý Toán lên ngôi chỉ truy tôn ''"Tự phụ"'' là Hiếu Chương Thế tử làm Chân Tông mà không thể truy tôn cha ruột của mình.
 
Tại Việt Nam, trước thời [[Hậu Lê]] thì các triều khác không xảy ra chuyện Trữtrữ quân mất sớm, nên việc chọn lựa ''"Cháu của Vua"'' kế nhiệm vị trí Trữtrữ quân chưa được đề cập. Vào thời Hậu Lê thì chuyện này xảy ra lần đầu tiên với ngai vị Vương của chúa Trịnh, khi [[Trịnh Cương]] kế nhiệm ông cố [[Trịnh Căn]]. Ngai vị họ Trịnh khi ấy được xem là ''"Bán quân chủ"'', các con trai và người kế vị của chúa Trịnh dù là ''"Trữtrữ quân"'' hay không thường đều thường thụ phong [[tước Công]] và chức vụ, ít khi định riêng cách gọi ''"Thế tử"'', trường hợp Trịnh Cương trước khi lên ngôi Chúa thì chỉ được phong làm ''"Tấn Quốc công"'', sau đó thụ tước ''"An Đô vương"'' để kế nhiệm ông cố<ref>[https://zh.wikisource.org/wiki/%E9%84%AD%E6%B0%8F%E4%B8%96%E5%AE%B6/%E7%AC%AC%E5%85%AB%E4%B8%96 Trịnh thị Thế gia bản chữ Hán, quyển 8]: 王諱棡,晉光王第二子,太妃張氏生,黎熙宗丙寅永治十二年五月十九日誕生。庚辰年王年十五,封副將普安侯;壬午年晉光王薨,王年十七,陞普郡公。癸未年王年十八,是年正月封節制各處水步諸營兼總政權太尉普國公,開理國府;裕宗乙丑永盛五年王年二十四,入正府,進封元帥總國政安都王。壬辰年,進封大元帥總國政上師尚父威明仁功聖德安王;永慶元年十一月二十八日薨於嘉林縣館䋘處,壽四十四,尊封溫穆莊肅寬裕徽濬經文緯武洪謨大略垂統憲天神謀睿算闢國開彊耀武宣威輯鄰和夏振綱陳紀和衷迓衡〈四十四字〉仁王,廟號僖祖,前寧陵東山縣赤路社,後寧厝安定縣快樂社裴賀村。</ref>. Tiếp sau đó, ngai vị của vua Lê cũng có [[Lê Chiêu Thống]] dưới thời ông nội là [[Lê Hiển Tông]] được chọn làm Trữtrữ quân, [[Đại Việt sử ký tục biên]] chép danh xưng của Lê Chiêu Thống khi ấy là '''Hoàng tự tôn''' (皇嗣孫)<ref>[[Đại Việt sử ký tục biên]], quyển 5, [https://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A4%A7%E8%B6%8A%E5%8F%B2%E8%A8%98%E5%85%A8%E6%9B%B8/%E7%BA%8C%E7%B7%A8%E5%8D%B7%E4%B9%8B%E4%BA%94 bản chữ Hán]: 諸軍迎皇長孫維(礻兼)歸內殿。長孫,故太子維禕之嫡子也。先是,太子被收,長孫與其弟䄂,祗俱繫獄。至是長孫年十七。。。立皇長孫維(礻兼)爲皇嗣孫,降封太子維(礻堇)爲崇讓公。時,皇長孫復歸內殿,人望咸屬。王乃命朝臣議立皇孫,正位東宮,令太子讓位,降封崇讓公。</ref>, trong khi [[Khâm định Việt sử thông giám cương mục|Cương mục]] ghi chép là Hoàng thái tôn<ref>[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục]], Chính biên, quyển 46:"''Quý Mão, năm thứ 44 (1783). (Thanh, năm Càn Long thứ 48). Tháng giêng, mùa xuân. Lập cháu trưởng là Duy Khiêm làm Hoàng thái tôn, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công. Thái tôn (cháu trưởng), con trưởng của Duy Vĩ, Thái tử đã mất. Lúc Thái tử bị nạn, Thái tôn mới 6 tuổi, cùng với em là Duy Trù và Duy Chi đều bị bắt giam. Đến lúc binh lính tam phù nổi loạn, họ đem nhau rước thái tôn về nội điện, lòng người đều chú ý trông mong''".</ref>. Vào triều [[Vua Gia Long]] thời Nguyễn, Anh Duệ Hoàng thái tử [[Nguyễn Phúc Cảnh]] qua đời và có lưu lại con trai, các quan trong triều đình suy xét việc Minh Thái Tổ khi trước mà kiến nghị nhà Vua lập con của Thái tử Cảnh là Đích tôn [[Nguyễn Phúc Mỹ Đường]] (khi ấy gọi là ''"Hoàng tôn Đán"''). Cuối cùng, nhà Vua quyết định ''"Con kế thừa cha"'' khi chọn em của Thái tử Cảnh là [[Vua Minh Mạng|Hoàng tử Đảm]], và đây cũng là lần cuối cùng lịch sử Việt Nam đề cập việc chọn lựa ''"Cháu của Vua"'' cho vị trí Trữtrữ quân.
 
Chỉ dụ của Vua Gia Long năm ấy ([[1815]]) có nói rõ như sau:
 
{{Cquote|Tháng 3 ngày Canh Dần, đặt triều nghi ở điện Cần Chánh, triệu bầy tôi đến, đều cho ngồi. Dụ rằng:"''Trẫm nay làm việc đã mỏi, rất lo đến kế lớn của Xã tắc. Thái tử là ngôi Trữ nhị của nước nhà<ref group = "note">'''Trữ nhị''' là một cách gọi của Trữtrữ quân, mang ý dự bị để nối ngôi, coi như vị Vua thứ hai của quốc gia vậy.</ref>, cần phải sách lập để trọng chính thống mà giữ bền gốc nước''". Bèn triệu Thượng thư Lại bộ là Trịnh Hoài Đức đến trước giường ngự, sai viết ''“Lập Hoàng tử Đảm làm Hoàng thái tử”'' để đưa cho bầy tôi xem<ref group = "note">Chỗ này có bản dịch Đại Nam thực lục chép thành '''Hiệu''', phiên âm từ chữ húy sau khi lên ngôi là (晈). Xét thấy ghi thành nguyên danh '''Đảm''' (膽) cho dễ hình dung.</ref>. Vua nói:"''Ai đồng ý thì ký tên vào''". Quần thần đều nói:"''Thánh ý định trước, thực là phước khôn cùng của Xã tắc, bọn thần xin noi theo mệnh lệnh''".
 
Vua thung dung dụ rằng:"''Cha con truyền ngôi cho nhau là đạo thường xưa nay. Từ đời Hán đời Đường trở xuống, ít người không theo. Hoặc có kẻ nói 'Đích tôn thừa trọng', ta thực không hiểu thuyết ấy. Duy có Thái Tổ nhà Minh mê hoặc theo lời nói của Lưu Tam Ngô mà bỏ con là Yên vương để lập Đích tôn là Doãn Văn, rốt cùng sinh tai vạ. Phàm biết con không ai bằng cha. Nếu Thái Tổ nhà Minh cho Yên vương là người hiền mà bấy giờ họp ngay đình thần, nói rõ là lập làm Thái tử, thì một lời nói ra, ai dám không theo! Như thế thì làm sao sinh loạn được"''. Quần thần đều vui phục.
Dòng 110:
Ngày Đinh Dậu, đúc ấn vàng sách vàng cho Hoàng thái tử.|||Trích từ [[Đại Nam thực lục]] - Đệ nhất kỷ - Quyển LII, ''"Thế Tổ Cao Hoàng đế"''}}
 
Bên cạnh việc ''"Huynh chung đệ cập"'', các vị Vua cũng chọn chú bác của mình làm Trữtrữ quân và đây là phương thức ''"lập Trữ"'' gây tranh cãi nhất, nguyên nhân cũng là vì sẽ thay đổi thứ tự truyền đời của chi Đại tông - một chuyện cấm kị đối với Nho giáo. Lịch sử đầu tiên đề cập vấn đề này chính là thời kỳ nhà Đường, dưới thời kỳ lũng đoạn của [[Đường Vũ Tông]] Lý Viêm, ông đã chọn chú của mình là Quang vương [[Đường Tuyên Tông|Lý Di]] làm "''Hoàng thái thúc''"<ref>《舊唐書・本紀第十八上・武宗》: 帝重方士,頗服食修攝,親受法籙。至是藥躁,喜怒失常,疾既篤,旬日不能言。宰相李德裕等請見,不許。中外莫知安否,人情危懼。是月二十三日,宣遺詔,以皇太叔光王柩前即們。是日崩,時年三十三。諡曰至道昭肅孝皇帝,廟號武宗,其年八月,葬於端陵,德妃王氏祔焉。</ref>. Việc chọn chú bác làm Trữtrữ quân luôn là mầm móng đại loạn, hơn nữa gây khó xử trong vấn đề truyền vị, triều đại [[nhà Liêu]] dưới thời [[Liêu Đạo Tông]] Gia Luật Hồng Cơ đã có [[Gia Luật Trọng Nguyên]] làm ví dụ, vì trước đó dưới triều [[Liêu Hưng Tông|Hưng Tông]] thì Trọng Nguyên đã giữ vị trí Hoàng thái đệ, sau khi Đạo Tông lên ngôi cũng chỉ sửa làm Hoàng thái thúc, dẫn đến việc Trọng Nguyên muốn đoạt vị mà nổi loạn<ref>《遼史・卷二十一・本紀第二十一》: 壬辰,以皇太弟重元為皇太叔,免漢拜,不名。</ref>.
 
Ngoài ra, cũng có các trường hợp kế nhiệm không với tư cách có quan hệ với vị Vua tiền nhiệm, tức là không được chỉ định lập làm Trữtrữ quân hoặc với tư cách Tự tử, thông thường nguyên nhân là do chính trị biến động hoặc quần thần chủ trương, trường hợp đáng kể có [[Hán Văn Đế]] Lưu Hằng. Sau [[loạn chư Lã]], Văn Đế được đại thần triều Hán tôn làm Hoàng đế, do đó Hán Văn Đế kế vị anh trai [[Hán Huệ Đế]] Lưu Doanh mà không mang tư cách Trữtrữ quân, không mang tư cách thờ tự anh trai lẫn không có di chiếu được kế vị. Lúc này do không có vấn đề về ''"Xưng thân chi lễ"'' cho nên mẹ của Văn Đế là [[Bạc Cơ]] thuận lợi được tôn làm Hoàng thái hậu. Tại Việt Nam có triều đại Hậu Lê xảy ra chuyện này, khi [[Lê Tương Dực]] lật đổ Đường huynh là [[Lê Uy Mục]] và tự lập, hoàn toàn không qua kế thừa lập Trữ. Sau đó dòng dõi Lê Thái Tổ tận diệt dưới thời [[Lê Trung Tông (Hậu Lê)|Lê Trung Tông]], do đó nhánh Hoằng Dụ vương [[Lê Trừ]] - anh của Lê Thái Tổ - là [[Lê Anh Tông]] được [[Trịnh Kiểm]] đưa lên ngôi. Trường hợp của Lê Anh Tông cũng không thông qua Trữtrữ quân, thậm chí cũng không như [[Hán Quang Vũ Đế]] Lưu Tú nhận [[Hán Nguyên Đế]] Lưu Thích làm Tự phụ<ref>《後漢書・卷三十五・張曹鄭列傳》: 純在朝歷世,明習故事。建武初,舊章多闕,每有疑議,輒以訪純,自郊廟婚冠喪紀禮儀義,多所正定。帝甚重之,以純兼虎賁中郎將,數被引見,一日或至數四。純以宗廟未定,昭穆失序,十九年,乃與太仆朱浮共奏言:『陛下興於匹庶,蕩滌天下,誅鋤暴亂,興繼祖宗。竊以經義所紀,人事眾心,雖實同創革,而名為中興,宜奉先帝,恭承祭祀者也。元帝以來,宗廟奉祠高皇帝為受命祖,孝文皇帝為太宗,孝武皇帝為世宗,皆如舊制。又立親廟四世,推南頓君以上盡於舂陵節侯。禮,為人後者則為之子,既事大宗,則降其私親。今禘祫高廟,陳序昭穆,而舂陵四世,君臣並列,以卑廁尊,不合禮意,設不遭王莽,而國嗣無寄,推求宗室,以陛下繼統者,安得復顧私親,違禮制乎?昔高帝以自受命,不由太上,宣帝以孫後祖,不敢私親,故為父立廟,獨群臣侍祠。臣愚謂宜除今親廟,以則二帝舊典,願下有司博采其議。』詔下公卿,大司徒戴涉、大司空竇融議:『宜以宣、元、成、哀、平五帝四世代今親廟,宣、元皇帝尊為祖、父,可親奉祠,成帝以下,有司行事,別為南頓君立皇考廟。其祭上至舂陵節侯,群臣奉祠,以明尊尊之敬,親親之恩。』帝從之。是時宗廟未備,自元帝以上,祭於洛陽高廟,成帝以下,祠於長安高廟,其南頓四世,隨所在而祭焉。</ref><ref>《後漢書注・卷三十五・張曹鄭列傳》:大宗谓元帝也。据代相承,高祖至元帝八代,光武即高帝九代孙,以代数相推,故继体元帝,故曰“即事大宗”。下又云“宣、元皇帝尊为祖、父”,又曰“自元帝以上祭于洛阳,成帝以下祭于长安”,其义明矣。降其私亲,谓舂陵已下不别序昭穆。</ref>, Anh Tông trực tiếp kế thừa ngai vị từ Trung Tông, cho nên Anh Tông mới có thể truy tôn cha ông mình thụy hiệu Hoàng đế và miếu hiệu (cha của Anh Tông là [[Lê Duy Khoáng]] được truy tôn làm ''"Hiếu Tông Nhân Hoàng đế"'')<ref>[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt21.html Đại Việt sử ký toàn thư - Lê Anh Tông Tuấn Hoàng đế bản kỷ]:「Trước kia, anh thứ hai của Thái Tổ là Trừ (tặng Lam Quốc công, nay tôn phong là Hoằng Dụ vương). Trừ sinh ra Khang (tặng Quỳ Quốc công, nay tôn phong là Hiển Công vương). Khang sinh ra Thọ (nay tôn phong là Quang Nghiệp vương), Thọ sinh Duy Thiệu (nay tôn phong là Trang Giản vương), Duy Thiệu sinh Duy Khoáng (nay tôn phong là Hiếu Tông Nhân Hoàng đế), Duy Khoáng lấy vợ người hương Bố Vệ, huyện Động Sơn, sinh ra vua. Bấy giờ, Trung Tông băng, không có con nối, Thái sư Lượng Quốc công Trịnh Kiểm và các đại thần đón lập lên.」</ref>, trong khi Quang Vũ Đế do nhận Nguyên Đế làm Tự phụ nên chỉ truy tôn cha ông là [[Lưu Khâm]] làm ''"Hoàng khảo"'', không có thụy hiệu và miếu hiệu chính thức, cũng không có được tôn xưng Hoàng đế<ref>《後漢書・城陽恭王祉傳》:初,建武二年,以皇祖、皇考墓為昌陵,置陵令守視;後改為章陵,因以舂陵為章陵縣。</ref>.
 
=== Sách lập cùng Phế trừ ===
Việc chọn lựa Trữtrữ quân, bất kể ở các quốc gia xưng Đế như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản hay xưng Vương như Triều Tiên, tất cả các triều đại đều quy định [[sắc phong|lễ gia phong tước vị]] chính thức cực kỳ lớn. Trong tất cả lễ gia phong tước vị dành cho các thân phận dưới Vua chúa, chỉ có lễ phong tước cho Chính thất và Trữtrữ quân là dùng chữ '''Lập''' (立), với ý nghĩa "dựng lên" một địa vị duy nhất hoặc độc nhất có tầm quan trọng. Việc gia phong Trữtrữ quân là trọng đại, việc thay đổi Trữtrữ quân hoặc bỏ đi Trữtrữ quân cũng đều là chuyện đại sự, chữ Hán gọi là '''Phế trữ''' (廢儲) hoặc '''Dịch trữ''' (易儲), có việc "dựng lên" thì khi bỏ đi cũng thành là "phế dời", cực kỳ khó khăn.
 
Các triều đại Đông Á đều quy định hết sức bài bản khi gia phong tước vị, ngoại trừ nhận được '''Ấn''' (印) hoặc '''Bảo''' (寶) được ghi tên tước vị của người đó, thì người được ban tước vị còn có các loại '''Sách''' (冊) làm từ [[ngọc]] hay [[vàng]], trên đó đều ghi các lời dụ rõ ràng từ Vua chúa lý do chọn người nào làm Trữtrữ quân, đồng thời là một bảo chứng cho toàn bộ quốc gia<ref group = "note">Lời trong các Sách phong này cũng được gọi là '''Sách văn''' (冊文).</ref>, khi gia phong có thể không được nhận Ấn bảo, nhưng ''"Sách"'' thường là thứ bắt buộc để chứng thực việc được gia phong<ref group = "note">Theo [[Hậu cung nhà Thanh]], tước Tần chỉ nhận Sách và không có Ấn bảo. Từ tước Tần trở lên mới là người có thân phận chứng thực trong hoàng gia.</ref>. Đối với tất cả triều đại Đông Á, việc lập Trữtrữ quân là một lễ lớn gọi là '''Đại điển''' (大典), do vậy thông thường đều dùng ''"Bảo"'' cùng ''"Sách"'' trong Lễ gia phong, cũng vì vậy mà trong các sách chữ Hán thì việc lập Trữtrữ quân được miêu tả bằng các từ như '''Sách Thái tử''' (册太子)<ref>[http://sillok.history.go.kr/id/wsa_11502001_001 【숙종실록 20권, 숙종 15년 2월 1일 己亥 1번째기사】]: 爲人臣者, 苟有憂國之心, 則當援皇明故事, 直請早建, 而宋時烈疏, 顯有不滿不足之意, 至如十歲尙在藩王, 有疾始冊太子之說, 其造意設計, 尤極危險, 削黜之典, 亦從末減。</ref>, '''Sách lập Thái tử''' (冊立太子)<ref>《清史稿・本紀八・聖祖本紀三》: 二月庚戌,趙申喬疏言太子國本,應行冊立。</ref>, '''Sách lập Trữ tự''' (冊立儲嗣)<ref>[http://sillok.history.go.kr/id/woa_10008001_003 【광해군일기(중초본) 3권, 광해 즉위년 8월 1일 乙卯 3번째기사】]: 弘文館啓曰: "王世子冊禮, 令儒臣博考經史, 勿拘常規事, 允下矣。 臣等取考書籍, 則漢以上無現出可據之處, 漢以後當用短喪之制, 雖有冊立儲嗣之事, 而只載吉服行禮矣。" 傳曰: "知道。"</ref> hay '''Sách lập Đông cung''' (冊立東宮)<ref>[http://sillok.history.go.kr/id/woa_10102013_006 【광해군일기(중초본) 5권, 광해 1년 2월 13일 乙丑 6번째기사】]: 禮曹啓曰: "曹啓辭, 王世子冊封事, 入啓, 答曰: ‘世子冊禮時, 當有陳賀等節次, 冊禮及陳賀時上下服色, 何以爲之? 先爲講定以啓。’ 事, 傳敎矣。 冊立東宮, 古今天下莫大之典禮, 今者王世子名號雖定, 縟儀未加, 所以群情悶鬱, 而請行典禮者也。 備物冊命, 實屬慶典, 故典文有陳賀節次, 冊禮賀儀。 恐難以素服行禮, 其日借吉行禮, 以重儲嗣之義, 似爲宜當。 第考禮文, 冊命時有自上親臨擧動, 自上所御服色, 不可亦爲變改, 依上年權停禮行禮, 似合事宜。" 答曰: "世子冊禮, 事體重大, 不可不親臨, 而自上旣不得變服, 則何以爲之? 此意議大臣以啓。"</ref>, cá biệt Nhật Bản có cách gọi '''Rittaishi no Rei''' (立太子の礼; りったいしのれい). Bởi vì việc chọn Trữtrữ quân là chuyện trọng đại, lễ nghi của gia phong Trữtrữ quân đều phải có trình tự kính cáo Tổ tiên trong các tòa Tông miếu của các vị Vua chúa, việc này cùng với đạo lý ''"Phụng sự Tông miếu"'' như chọn Chính thất, trong khi gia phong thân vương hay phi tần đều không cần qua chuyện kính cáo Tổ tiên trọng đại như thế này. Sau khi có gia phong chính thức, thì chính là việc ban chiếu cáo cho toàn bộ quốc gia biết chuyện chọn lập Trữtrữ quân, và dựa vào tờ tuyên cáo cho thiên hạ mà danh vị của Trữtrữ quân mới được xác định chính thức{{NoteTag|Thời kỳ [[Nguyên Vũ Tông]] Hải Sơn, em trai ông là [[Nguyên Nhân Tông|Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt]] được chọn làm Trữtrữ quân với danh hiệu Hoàng thái tử thay vì Hoàng thái đệ<ref>《元史・卷二十二・本紀第二十二》: 六月癸巳朔,詔立母弟愛育黎拔力八達為皇太子,受金寶。</ref>}}.
 
Cũng như việc chọn lập Trữtrữ quân, việc tiến hành phế bỏ Trữtrữ quân cũng đều cần trình tự rạch ròi, kính cáo Tông miếu lý do phế bỏ, đồng thời quan trọng nhất vẫn cần ra chiếu chỉ tuyên bố khắp quốc gia. Bản thân [[Lê Thái Tông]] khi chọn [[Lê Nghi Dân]] cũng rất không rõ ràng, gần như còn chưa tiến hành lễ Sách lập, tuy nhiên khi ông phế bỏ mẹ của Nghi Dân là Dương Thị Bí và quyết định bỏ đi vị trí Thái tử của Nghi Dân, ông vẫn chiếu cáo đạo dụ khắp thiên hạ. Và vào cùng năm khi chọn [[Lê Nhân Tông]] Bang Cơ làm Thái tử, ông liền cho truyền đạo dụ ngay trong cùng năm:
{{Cquote|
Tháng 3, giáng Dương Thị Bí xuống làm Thứ phụ<ref group = "note">Nguyên văn 「庶婦」.</ref>. Trước đây, Dương Thị Bí sinh con là Nghi Dân, Vua lập làm Thái tử. Dương Thị Bí cậy thế càng lăng loàn kiêu căng. Vua vẫn nín nhịn bao dong, giáng xuống làm Chiêu nghi, muốn cho thị sữa bỏ lỗi lầm. Nhưng Dương Thị Bí lại càng hằn học trong lòng, không kiêng nể gì nữa. Vua cho là Dương Thị Bí đã cố tình như vậy, thì con thị đẻ ra chưa chắc đã là người khá, mới giáng xuống làm Thứ phụ, rồi xuống chiếu nói cho thiên hạ biết là ngôi Thái tử chưa định.
Dòng 141:
 
=== Vị trí trong triều ===
Vì là người sẽ kế vị, khác biệt với các [[hoàng tử|hoàng tử cùng vương tử]] được mở phủ riêng ngoài cung, nơi ở của Trữtrữ quân thường được đặt ở [[phía Đông]] của cung đình trong kinh thành nên thường được gọi là '''Đông cung''' (東宮)<ref>《漢書・五行志上》: 東宮,太子所居。</ref>, vì lý do này mà Thái tử ở Đông Á còn được gọi là "'''Đông cung Thái tử'''". Do là cung điện của ''"Trữtrữ quân"'', nên đôi khi nơi ở của Thái tử cũng được gọi là '''Trữ cung''' (儲宮)<ref>《後漢書・郎顗襄楷列傳下》: 四事:臣竊見皇子未立,儲宮無主,仰觀天文,太子不明。</ref> hay '''Trữ vi''' (儲闈)<ref>唐 劉禹錫 《賀皇太子受冊箋》:“祗膺詔冊,光啟儲闈。”</ref>. Ở thuyết [[ngũ hành]], hướng Đông thuộc [[hệ Mộc]], màu ''"Thanh"'', xét Tứ quý thì thuộc [[mùa xuân]], nên ''"Đông cung"'' đôi khi cũng được gọi một cách né tránh là '''Thanh cung''' (青宮)<ref>《清史稿・卷二百一十四》: 上因諭曰:「那拉氏本朕青宮時皇考所賜側室福晉,孝賢皇后崩後,循序進皇貴妃。」</ref> hay '''Xuân cung''' (春宮)<ref>《通典・刑法八・舞紊》: 大同中,皇太子在春宮視事,見而愍之</ref>.
 
Địa vị của Trữtrữ quân vào thời xưa, dựa vào tên gọi ''"Trữ nhị"'' cũng có thể hiểu là tôn quý chỉ dưới vị Vua chúa trị vì của một quốc gia, do đó thế lực của Trữtrữ quân có thể tạo thành một chính thể quyền lực tương tự với Vua chúa. Khi xếp vào trình tự ưu tiên, Trữtrữ quân luôn ở dưới Vua chúa, do vậy Trữtrữ quân dĩ nhiên được xếp trên các vương công vốn là anh em hoặc chú bác của Vua chúa. Trong nơi ở của Trữtrữ quân là Đông cung, cũng được thiết kế hết sức bài bản khi được thiết đặt các chức quan hầu việc tương tự hệ thống quan viên ở triều đình và Phủ đệ của các thành viên khác. Quy mô thiết đặt cơ sở hạ tầng cũng như nhân lực tại Trữtrữ quân, nếu so với triều đình thì đã được thu nhỏ lại vì vị trí Trữtrữ quân ở dưới Vua chúa, thế nhưng lại vượt xa Phủ đệ của hoàng tử cùng vương tử bình thường vì Trữtrữ quân là người kế vị trong tương lai. Các quan viên chủ yếu nhận nhiệm vụ về giáo dục Trữtrữ quân, nên thực tế không có quyền hạn đáng kể, nhưng nếu Trữtrữ quân kế vị thì những quan viên này sẽ là những người hàng đầu được bổ nhiệm các vị trí trọng yếu trong hệ thống chính trị. Ngoài ra, trong Đông cung cũng có các [[hoạn quan]], [[nữ quan]], và một toán Túc vệ được chỉ định... tất cả đều án theo mô hình thu nhỏ của cung đình mà bố trí, phục vụ sinh hoạt của Trữtrữ quân và gia quyến{{NoteTag|Ví dụ quy định dành cho Vua Minh Mạng:
*"''Ban mũ áo cho Hoàng thái tử, lấy ba vệ Kiện Vũ, Túc Bảo nhất, Túc Bảo nhị và Chấn hầu, Thị nghi, Tư thiện, Thủy quân, đều gộp làm một đội để sung theo hầu''".
* "''Ngày Đinh Dậu, đúc ấn vàng sách vàng cho Hoàng thái tử. Sách dùng 5 tờ vàng, dài 5 tấc 6 phân 6 ly, ngang 2 tấc 2 phân 4 ly, mỗi tờ dầy 2 ly. Còn ấn đúc bằng vàng, núm bằng con rồng ngồi, vuông 2 tấc 4 phân 3 ly, dầy 3 phân 2 ly, khắc bốn chữ triện Hoàng thái tử bảo (皇太子寶)''".
* "''Tháng 5, đúc ấn bạc Hoàng thái tử. Ấn vuông 6 phân 7 ly, dày 3 phân, núm rồng ngồi, khắc chữ triện Đông triều thị tín (東朝示信)''".
* "''Sắc từ nay, Hoàng thái tử và các hoàng tử hoàng tôn tước Công vào hầu, từ các cửa Hoàng thành trở vào trong: hành nghi của Hoàng thái tử thì cáng một cái, lọng hai cái, gươm ba cái, hành nghi các tước Công thì cáng, lọng, gươm, mỗi thứ một cái, đều đến ngoài cửa Hưng Khánh thì dừng. Hoàng nữ và thê thiếp các tước Công chỉ được đi các cửa Hiển Nhân, Chương Đức, Củng Thần, hành nghi thì dùng kiệu, lọng đều một cái, đến ngoài cửa Lý Thuận thì dừng''".}}. Vì là người sẽ kế vị nên mũ áo, lễ nghi của Trữtrữ quân cũng khác biệt với các hoàng tử cùng vương tử khác, đồng thời lại thường là bản thu nhỏ một chút án theo quy chế vốn có của Vua chúa.
 
Cũng bởi vì địa vị nhạy cảm, trong lịch sử rất nhiều Vua chúa cùng Trữtrữ quân của mình mâu thuẫn, đây cũng là lý do khiến nhiều Trữtrữ quân dễ dàng bị phế truất hoặc bị uy hiếp đến nỗi tạo phản, điển hình nhất là Lệ Thái tử [[Lưu Cứ]] thời [[Hán Vũ Đế]] Lưu Triệt, do phát sinh mâu thuẫn cùng gian thần [[Giang Sung]] mà dấy cả binh lính muốn ép Vũ Đế thoái vị, cuối cùng con cháu bị hại thảm. Bên cạnh đó, cũng vì ước mong có được vị trí Trữtrữ quân, rất nhiều hoàng tử cùng vương tử trong lịch sử tính toán lẫn nhau mà cạnh tranh, đển hình nhất chính là sự kiện '''[[:zh:九子夺嫡|Cửu vương đoạt đích]]''' (九王奪嫡) thời kỳ cuối của triều đại Khang Hi.
 
== Bên ngoài Đông Á ==
=== Tại Châu Âu ===
==== Khái niệm ''-apparent'' cùng ''-presumptive'' ====
Ở các nền quân chủ theo [[Cơ Đốc giáo]] tại [[Châu Âu]], vấn đề kế vị rất không ổn định và thường xuyên có thay đổi về hôn nhân và khả năng sinh hạ người thừa kế, cho nên ''"Trữtrữ quân"'' không phải lúc nào cũng là con của vị Vua đương nhiệm, mà có một nửa là anh em chú bác hay thậm chí là họ hàng trong gia tộc dựa theo quy định kế vị mà Nghị viện hay cơ quan Hành pháp của quốc gia ấy quy định.
 
Bởi vì lý do chính trị, nền quân chủ tại Châu Âu đa phần tách bạch giữa ''"Thần quyền"'' từ Giáo hội, ''"Pháp quyền"'' từ Nội các chính phủ và ''"Quân quyền"'' từ ngai vàng, cả ba yếu tố này thường xuyên chạm trán nhau nên quy định kế vị tại Châu Âu cũng hết sức đặc biệt. Trong ba yếu tố thì ''"Pháp quyền"'' cùng ''"Quân quyền"'' là hai yếu tố chính yếu, bởi vì luật lệ kế vị của Châu Âu đều phải qua chiếu chỉ [[lập pháp]], rất nhiều trường hợp bản thân ý định của Vua chúa hoàn toàn bị cơ quan lập pháp phản đối, hay thậm chí là dẫn đến nội chiến. Các cơ quan lập pháp này thường là từ các '''Nghị viện''' (''Parliament''), mà thành viên Nghị viện thường là các quý tộc [[chư hầu]] có địa vị trong quốc gia, thậm chí là thành phần [[Giám mục]] đại diện cho ''"Thần quyền"'' cũng được tính vào nhóm này, còn một nhóm khác là các [[luật sư]] và [[chính khách]]. Khác với Đông Á lựa chọn Trữtrữ quân là dựa vào ý niệm của Vua chúa là chính, thì Châu Âu do có sự phân bố quyền lực đặc biệt như vậy nên thường có một thứ gọi là '''Danh sách kế vị''' (''Line of succession''), một danh sách được Nghị viện công nhận, sẽ ấn định sẵn toàn bộ quyền kế vị cho thành viên của dòng dõi Vua chúa đối với ngai vàng của quốc gia ấy. Ví dụ khá nổi tiếng là sự kiện [[James VI và I của Anh|Vua James VI của Scotland]] kế vị [[Elizabeth I của Anh|Nữ vương Elizabeth]] vì là hậu duệ của [[Margaret Tudor]] - chị gái của [[Henry VIII của Anh]], thông qua đạo luật thừa kế được phê duyệt bởi Nghị viện.
 
Đây cũng là lý do mà ở Châu Âu lại có hai kiểu nói về Trữtrữ quân:
# "'''Heir apparent'''": có nghĩa ''"Người kế thừa ấn định"''. Những người này chắc chắn sẽ kế vị theo pháp luật do Nghị viện công bố và không thể bị thay đổi, đây cũng có thể gọi là Trữtrữ quân chính thức. Thông thường các "Heir apparent" đều sẽ có tước vị chư hầu cố định giống như các tước hiệu quý tộc khác, như tước hiệu [[Thân vương xứ Wales]] là dành cho các "Heir apparent" của ngai vàng Anh kể từ [[Edward I của Anh|thời kỳ Edward I]].
# "'''Heir presumptive'''": có nghĩa ''"Người kế thừa lâm thời"''. Cũng bởi vì Châu Âu dựa vào lập pháp kế vị, nên trong một thời điểm một vị Vua cai trị đều sẽ có một ''"Danh sách kế vị"'' hiện hữu, phòng khi nhà Vua đang tại vị chưa kịp ấn định người thừa kế. Lúc này, người đứng đầu danh sách được gọi là "Heir presumptive", thường sẽ được xem là người kế vị, nhưng bởi vì họ chưa được công bố chính thức trở thành "Heir apparent" nên họ chưa được gọi là Trữtrữ quân. Trong trường hợp này, nếu một người khác trong dòng dõi nhà Vua được sinh ra và có quyền kế vị cao hơn, thì người này ngay lập tức mất đi quyền kế vị.
 
Khác với Đông Á quy định rõ khác biệt giữa ''"Sách lập"'' dành cho Trữtrữ quân và ''"Sách phong"'' dành cho tước vị bình thường khác, lễ phong tước cho các "Heir apparent" tại Châu Âu được gọi là '''Investiture''' và nó chỉ là một dạng lễ phong chức vụ, bất kì ai có địa vị quý tộc hoặc chức vụ quan trọng cũng đều có thể hưỡng lễ thụ phong tương đương. Ngoài điều đó ra, các "Heir apparent" tại Châu Âu được hưởng quyền ưu tiên hơn tất cả hoàng tử cùng vương tử lẫn các quý tộc khác trong triều đình, điều này là do ''"Quân quyền"'' từ ngai vàng ảnh hưởng. Tuy nhiên, ý thức về quyền lợi của "Heir apparent" khiến một số quốc gia quyết định nâng địa vị của người thừa kế tương ứng với Đồng quân vương, tức là khiến họ có quyền trị vì thực tế đối với nền chính trị của quốc gia bên cạnh vị Vua chúa đương nhiệm, như [[:en:Henry the Young King|Tiểu vương Henry]] thời [[Henry II của Anh]], tước vị [[Vua La Mã Đức]] của [[Thánh chế La Mã]] hoặc [[Nhị vương (Xiêm)|Tiền Cung vương chúa]] dành cho các [[Uparaja]] của khối Đông Nam Á.
 
Cũng bởi vì bị kẹp giữa ba thế lực, thông thường các "Heir apparent" một khi đã được gia phong thì hầu như không thể thay đổi, trường hợp thay đổi "Heir apparent" thường là do vị Vua chúa ấy bị mất ngai vàng, chính phủ của quốc gia sụp đổ hoặc bản thân "Heir apparent" đó đã qua đời.
Dòng 173:
Phương pháp ưu tiên con trưởng tại Châu Âu là giữ quyền cho con trưởng kèm toàn bộ hậu duệ của con trưởng, nếu con trưởng qua đời thì quyền kế vị sẽ truyền cho con cháu con trưởng, chỉ khi toàn bộ nhánh con trưởng không còn hậu duệ thích hợp để kế thừa thì quyền kế thừa mới dành cho người em và hậu duệ, mà người em này phải là người em lớn tuổi nhất trong số các người em còn lại. Phương pháp này trong tiếng Anh được gọi là ''"Per stirpes"'', tương tự với việc truyền cho Đích tôn - con trai Đích lớn của [[Đích trưởng tử]] trong văn hóa Đông Á vậy. Trong khi đó, phương pháp ''"Cận hệ kế thừa"'' có xu hướng trái ngược với ''"Đích duệ kế thừa"'' vì phương pháp này lại chỉ tính quyền kế vị của một thế hệ, tức chỉ công nhận quyền kế thừa của người thừa kế và anh chị em cùng thế hệ với người đó. Ví dụ như, khi người có quyền thừa kế qua đời và không có hậu duệ, mà người em lớn nhất cũng đã chết nhưng lưu lại hậu duệ, trong hai sự chọn lựa giữa ''"Người cháu lớn nhất"'' cùng ''"Người em duy nhất còn lại"'' thì phương pháp này ưu tiên chọn người em hơn là người cháu. Việc thành lập phương pháp ''"Cận hệ kế thừa"'' này cùng với ''"Đích duệ kế thừa"'' luôn xảy ra tranh chấp, cả hai đều là phương pháp có tính hợp pháp cao, vì vậy trong cùng một triều đại thì cũng có trường hợp cả hai phương thức này được áp dụng.
 
Ví dụ cho ''"Cận hệ kế thừa"'' cùng ''"Đích duệ kế thừa"'' đồng thời được áp dụng, phải kể đến triều đại [[nhà Plantagenet]] tại nước Anh. Quốc vương [[Richard I của Anh]] qua đời mà không có con, theo điều luật kế vị ''"Đích duệ"'' thì [[Arthur I, Công tước xứ Brittany]] sẽ kế vị Vua Richard, vì Arthur là con trai của người em quá cố lớn nhất của Vua Richard, tức [[Geoffrey II, Công tước xứ Brittany]]. Lúc này hai phe hành pháp giữa Angevin và Norman lại tranh cãi xu hướng kế vị, do phái Angevin coi trọng xu hướng ''"Đích duệ"'' mà ủng hộ Arthur, còn phái Norman lại ưa xu hướng ''"Cận hệ"'' và ủng hộ người em trai út còn sống duy nhất của Vua Richard, tức là Tân vương [[John của Anh]]<ref>{{Cite book|last=Barlow|first=Frank|author-link=Frank Barlow (historian)|title=The Feudal Kingdom of England, 1042–1216|publisher=Pearson Education|year=1999|isbn=0-582-38117-7}}</ref>. Sau đó là qua mấy đời sau, đến thời kỳ [[Edward III của Anh|Edward III]], con trai cả của nhà Vua là [[Edward, Hắc vương tử]] qua đời, con trai Hắc vương tử là Richard xứ Bordeaux trở thành hậu duệ duy nhất của vương tử. Khi ấy người em trai lớn nhất còn sống của vương tử là [[John xứ Gaunt]] đang nắm nhiều vị trí quan trọng trong triều, và theo truyền thống ''"Cận hệ kế thừa"'' thì John hoàn toàn có thể trở thành Trữtrữ quân. Thế nhưng Richard vì danh vọng từ người cha quá cố của mình, cũng như sự ủng hộ từ Viện Thứ dân trong Nghị viện mà thuận lợi trở thành Trữtrữ quân của ông nội, kế thừa vị trí Thân vương xứ Wales từ cha và thành công trở thành [[Richard II của Anh]]. Ngược lại, do trong suốt thời kỳ trị vì không có hậu duệ, John trở thành ''"Heir presumptive"'' của Vua Richard II, và thời điểm nhà Vua bị phế truất thì John đã qua đời, nên ngai vàng Anh được trao cho con trai của John, tức [[Henry IV của Anh]].
 
Còn một phương pháp rất cổ điển để quyết định quyền kế vị tại Châu Âu, chính là quyền công nhận cả hậu duệ của nữ giới, nhưng quyền lợi của nữ luôn phải xếp sau dòng nam và chỉ khi dòng nam không còn thì mới xét đến dòng nữ, trong tiếng Anh thì phương thức này được gọi là ''"Agnatic-cognatic succession"'' hay "''Semi-Salic''". Ở cách thức này thì hậu duệ của nữ cũng có thể kế thừa, trong trường hợp nam giới đều không còn. Phương pháp này giống [[Luật Salic]] ở chỗ thông thường sẽ không để nữ giới trực tiếp kế vị, tuy nhiên con trai hoặc hậu duệ là nam giới của người phụ nữ này lại có tư cách{{NoteTag|Cái tên "''Semi-Salic''" có nghĩa là ''"Bán Salic"''.}}. Cũng như quyền lợi truyền vị từ dòng nam, hậu duệ dòng nữ cũng ưu tiên ''"Con trưởng kế thừa"'' kèm ''"Cận hệ kế thừa"'', thông thường thì vai vế càng gần thì quyền đòi hỏi càng lớn. Ví dụ sau khi [[Charles IV của Pháp]] qua đời, xét theo khỏa hệ thì Quốc vương Edward III của Anh có quyền kế vị ngai vàng Pháp cao hơn nếu so với [[Philip VI của Pháp|Philip, Bá tước Valois]], bởi vì Edward là con trai của [[Isabella của Pháp, Vương hậu nước Anh|Isabelle]] - em gái của Vua Charles, trong khi Philip là con trai của [[Charles de Valois|Charles, Bá tước Valois]] - một người chú của Vua Charles. Như vậy xét theo quan hệ xa gần trong khoa phả hệ, đời của Edward gần hơn nếu so với Philip. Dù đã được áp dụng từ xa xưa, thế nhưng không phải lúc nào phương pháp ''"Semi-Salic"'' này cũng được công nhận bởi vì ngai vàng sẽ bị rơi vào tay người ngoài, do vậy thông thường phương pháp này bị nhiều Nghị viện hoặc Giáo hội e ngại ngoại bang thẳng thừng loại bỏ, [[Chiến tranh Trăm Năm]] nổ ra chính là vì phương pháp này bị Nghị viện cùng Giáo hội nước Pháp khai trừ mà không công nhận quyền kế vị từ mẹ của Vua Edward III. Trái ngược với nước Pháp, các triều đại [[nhà Tudor]], [[nhà Stuart]] cùng [[nhà Hanover]] trong lịch sử Anh được công nhận quyền lợi kế vị cũng đều xuất phát từ phương pháp này.
Dòng 199:
Ở hầu hết các thời kỳ, nền chính trị Hồi giáo cùng Đông Nam Á lại dùng giá trị vũ lực để cai trị, nên ''"sự trưởng thành"'' và ''"kinh nghiệm"'' thường là yếu tố được ưa chuộng hơn cả để quyết định ai sẽ là Vua, điều đó không chỉ khiến các quốc gia này thường xuyên có hiện tượng cướp ngôi, mà các trường hợp bị cướp ngôi phần lớn rơi vào việc những người con của vị Vua tiền nhiệm còn quá nhỏ tuổi. Cũng bởi vì xem trọng giá trị vũ lực thực tế, lại không bị ràng buộc đạo lý thứ tự truyền đời theo Tông miếu như các quốc gia Nho Khổng, phương pháp ''"Con kế thừa cha"'' trong những trường hợp này hoàn toàn có thể bị phá vỡ bằng phương pháp ''"Trưởng bối kế thừa"'', hay tiếng Anh còn gọi là "''Agnatic seniority''". Trong bối cảnh ''"Trưởng bối kế thừa"'', người em trai lớn nhất của vị Vua tiền nhiệm sẽ được ưu tiên hơn hẳn hậu duệ của vị Vua tiền nhiệm, nếu những hậu duệ ấy còn quá nhỏ tuổi, hoặc không đủ uy vọng để được ủng hộ lên ngôi. Tuy nhiên khác với ''"Cận hệ kế thừa"'' tại Châu Âu, phương pháp ''"Trưởng bối kế thừa"'' một khi được áp dụng, thì sẽ tiếp tục truyền đến những người anh em khác cùng thế hệ, và hậu duệ của vị Vua này chỉ được kế thừa sau khi toàn bộ anh em của vị Vua ấy đều chết<ref>{{cite book |title=Dissertations on Early Law and Custom |last=Maine |first=Henry Sumner |publisher=J. Murray |year=1891 |pages=[https://archive.org/details/dissertationson03maingoog/page/n159 145]–6 |isbn=978-0-405-06522-4 |url=https://archive.org/details/dissertationson03maingoog }}</ref>. Nhìn chung thì phương pháp này giống ''"Huynh chung đệ cập"'' được truyền từ thời nhà Thương, và phương pháp này sẽ khiến nhiều triều đại lâm vào cảnh tàn sát nội tộc, khi đó vị Vua kế vị vì muốn đảm bảo quyền lợi cho mình và con cháu mà ra tay giết hại hậu duệ của những vị Vua chúa đời trước đó.
 
Thời gian đầu Đế chế Ottoman chưa áp dụng quy tắc kế thừa này mà vẫn chọn phương pháp ''"Con kế thừa cha"'', thế nhưng rất nhiều người anh em của Sultan hoặc Trữtrữ quân đương nhiệm sẽ được phái làm Trị sự các thành thị cách xa kinh thành, và khi họ có đủ thực lực sẽ có thể dấy binh tạo phản tranh quyền làm Sultan, tạo nên rất nhiều cuộc nội chiến làm kiệt quệ vương triều. Vì để tránh rắc rối từ nhiều thế hệ trước, Sultan [[Mehmed III]] sau khi lên ngôi đã cho xử tử toàn bộ 19 người em trai còn sống của mình, nhằm đảm bảo quyền kế vị sẽ mãi truyền cho con cháu, cũng tạo thành nền tảng cho việc áp dụng ''"Trưởng bối kế thừa"'' để truyền vị trong hoàng gia Ottoman về sau<ref>{{cite book|last1=Quataert|first1=Donald|title=The Ottoman Empire, 1700-1922|date=2000|publisher=Cambridge University Press|isbn=0-521-63328-1|page=90}}</ref><ref>{{cite book|last1=McCullagh|first1=Francis|title=The Fall of Abd-ul-Hamid|url=https://archive.org/details/fallofabdulhamid00mccuuoft|date=1910|publisher=Methuen & Co. Ltd.|location=London|page=[https://archive.org/details/fallofabdulhamid00mccuuoft/page/72 72]}}</ref>. Từ sau thời kỳ Sultan [[Ahmet I]], triều đình đưa những hoàng tử hoặc hoàng thân có khả năng kế thừa vào một buồng giam được gọi là '''Kafes''' (قفس‎), phòng trường hợp bị mưu sát vì lý do chính trị, và khi vị Sultan qua đời thì người em trai hoặc cháu trai này sẽ cứ an toàn lên ngôi. Lúc này vị trí ''"Trữtrữ quân"'' thường thuộc về người em trai lớn tuổi nhất của vị Sultan đương nhiệm, nếu không thì cũng là cháu trai trưởng là con cả của người anh là Sultan tiền nhiệm. Xuất phát từ tâm lý mạnh được yếu thua, một số ít vị Sultan còn dùng quyền lực để cho con trai mình trở thành Trữtrữ quân và loại bỏ quyền kế vị từ các nhánh khác.
 
Do bị giam cầm trong thời gian dài, chế độ ''"Kafes"'' khiến nhiều thế hệ Sultan thiếu hẳn năng lực cai trị, một số vị hoàng tử Ottoman cả đời bị nhốt trong đây đến khi chết già, còn có trường hợp bị dọa đến nỗi mắc [[bệnh tâm thần]] và bị ''"tuyên bố"'' mất tư cách thừa kế ngai vàng. Sultan [[Mehmed VI]] đã bị giam trong ''"Kafes"'' bởi người chú là Sultan [[Abdul Aziz]], và ông đã phải trải qua triều đại của chú ông cùng 3 người anh trai khác trước khi lên ngôi vào năm [[1918]], và khi ông lên ngôi vị Sultan thì cũng đã 56 tuổi.
 
Ở nhiều quốc gia Hồi giáo khác, giá trị vũ lực lại thắng được tất cả, rất nhiều vị Vua chúa dù đã chỉ định Trữtrữ quân nhưng các Trữtrữ quân đều sẽ bị giết hại bởi những người có khả năng thừa kế gần khác, hoặc bản thân cha con vị Vua chúa ấy bị người khác lật đổ. Triều đại Mughal tại Ấn Độ cũng có một nền chính trị vũ lực phức tạp như vậy, cho nên dù đã ấn định Trữtrữ quân cũng có thể bị em trai mình giết hại và lật đổ, như [[:en:Dara Shikoh|Dara Shikoh]] được cha mình là Hoàng đế [[Shah Jahan]] sách lập làm Trữtrữ quân với danh hiệu ''"Shahzada-e-Buland Iqbal"''{{NoteTag|Có nghĩa ''"Vị Hoàng tử mang Đại hạnh vinh quang"''<ref name="Title">{{cite book |last1=Khan |first1='Inayat |last2=Begley |first2=Wayne Edison |title=The Shah Jahan nama of 'Inayat Khan: an abridged history of the Mughal Emperor Shah Jahan, compiled by his royal librarian : the nineteenth-century manuscript translation of A.R. Fuller (British Library, add. 30,777) |date=1990 |publisher=Oxford University Press |page=4 |isbn=9780195624892 |url=https://books.google.com/books?id=n_BtAAAAMAAJ&q=padshahzada |language=en}}</ref>.}}, tuy nhiên sau đó ông bị em trai là Hoàng tử Muhiuddin mưu hại, các con trai của ông cũng bị xử tử. Sau khi Hoàng đế Shah Jahan qua đời vài năm sau, Muhiuddin trở thành Hoàng đế [[Aurangzeb]]. Kể từ thời kỳ này, ngai vị của Mughal thường xuyên là cháu giết chú hay chú bác ám sát con cháu để tranh quyền, thậm chí hoàng đế còn bị quyền thần xem là bù nhìn để đưa lên ngôi, vì vậy việc quyết định Trữtrữ quân tại Mughal về sau căn bản cũng không còn bao nhiêu ý nghĩa.
 
[[File:Front_Palace_circa.1890.jpg|thumb|trái|300px|Ảnh chụp Tiền cung Thái Lan khoảng năm 1890, hiện nay là [[:en:Bangkok National Museum|Bảo tàng quốc gia Bangkok]].]]
 
Khu vực Đông Nam Á theo [[Phật giáo]] như [[Miến Điện]], [[Thái Lan]], [[Lào]] cùng [[Campuchia]] thì quy định địa vị Trữtrữ quân là [[Uparaja]], mang ý nghĩa ''"Phó vương - Người trị vì thứ hai"'', bởi vì các quốc gia này xem Trữtrữ quân là một vị Vua khác có quyền lực chỉ sau vị Vua chúa tối cao đang tại vị. Tư duy này tiếp nhận từ xu hướng [[Đại Ấn Độ]] và có nét giống các nền quân chủ Khổng giáo, tuy nhiên các quốc gia Phật giáo lại cho quyền lực của Trữtrữ quân hết sức vượt trội, do vậy cũng khiến các quốc gia này có nền chính trị phe phái phức tạp và yêu cầu vũ lực được đề cao tương tự các quốc gia Hồi giáo.
 
Tại Miến Điện, các Trữtrữ quân được ban danh xưng '''Einshay Min''' (အိမ်ရှေ့မင်), danh xưng này cùng với '''Wang Na''' (วังหน้า) ở Thái Lan đều cùng một ý nghĩa là ''"Phía trước Cung điện"'' hay ''"Tiền cung"'', cho thấy địa vị ưu việt của Trữtrữ quân khi đại diện nhà Vua thống lĩnh cùng cai trị quốc gia. Sau khi chế độ quân chủ tại Miến Điện sụp đổ, Thái Lan tiếp tục sử dụng danh hiệu này mãi đến sự kiện [[:en:Front Palace Crisis|''"Khủng hoảng Tiền cung"'']], triều đình Thái Lan sau đó đã đổi sử dụng cách gọi [[:en:Crown Prince of Thailand|''"Crown Prince"'']] như phương Tây để nói về Trữtrữ quân. Vì là một vị ''"Phó vương"'', địa vị của Trữtrữ quân cũng được quy định bài bản như lễ lên ngôi của họ đều có điểm tương tự vị quốc vương thực sự, cung điện của họ thường có quy cách giống quốc vương, con cháu của họ cũng được quy định địa vị cách biệt và vượt trội hơn tất cả con cháu vương tử khác.
 
== Quyền thừa kế của nữ ==
Dòng 227:
* '''Có quyền sau khi hết dòng nam''': nếu dòng dõi Vua chúa đang trị vì không còn nam giới, người nữ gần nhất sẽ có quyền kế vị, thường xảy ra ở Châu Âu.
 
Tại [[Ai Cập cổ đại]] cùng [[Đế quốc Sasan|Đế chế Sasan]] cổ đại, có hiện tượng các [[Pharaoh]] cùng [[Shah]] vì để kế nhiệm ngai vàng cưới chị em gái ruột hoặc khác mẹ của mình làm Vợ, và hầu hết đều yêu cầu sinh hạ người thừa kế. Ví dụ về Ai Cập cổ đại tương đối nhiều, như [[Tutankhamun]] cưới chị khác mẹ là [[Ankhesenamun]], còn Đế chế Sasan cổ đại có trường hợp Shah [[Narseh]] cưới chị em cùng cha là [[Shapurdukhtak của Sakastan]] trong khi cả hai đều là con của Shah [[Shapur I]]. Ngoài ra còn có khả năng [[Stateira I]] của Shah [[Darius III]] [[nhà Achaemenid]] cũng là một người chị em rồi về sau trở thành vợ của ông. Việc làm này của các Pharaoh và các Shah cho đến nay vẫn có rất nhiều tranh luận cùng lý giải, thế nhưng rõ ràng khái niệm"''Duy trì dòng dõi của nữ giới''" ít nhất cũng là một sự thật. Có ý kiến cho rằng rất nhiều vương nữ của các vương triều cổ đại có địa vị đặc biệt về ''"Quyền lợi truyền thừa"'' ảnh hưởng lên các vương tử kế vị, hoặc là ''"Không như vậy thì không được"'', cho nên người kế nhiệm vị trí Pharaoh / Shah mới phải kết hôn với họ để xác lập ngai vị của mình. Thời kỳ cổ đại ở [[Trung Đông]], rất nhiều trường hợp vị Vua chúa kế nhiệm sẽ cưới con gái của các vị Vua tiền nhiệm để hợp pháp hóa sự kế vị của mình với tư cách con rể. Trước mắt thì điều này không có nghĩa phụ nữ được quyền kế thừa tại các quốc gia ấy, nhưng vì cũng có vai trò ''"Duy trì dòng dõi"'' mà hành động này lại rất cần thiết, ít nhất vào thời điểm đó thì tính chính danh cần duy trì ở họ ngoại. Vị Đại đế [[Darius I]] của [[Đế quốc Achaemenid]] là một ví dụ điển hình cho việc này, khi ông đã lần lượt cưới các con gái của Hoànghoàng đế tiền nhiệm là [[Cyrus Đại đế]] để ngai vị của ông không bị bàn cãi nữa. Tương tự như vậy, vương triều thứ 18 của Ai Cập có hai vị Pharaoh là [[Ay]] cùng [[Horemheb]] từ vị trí Quyền thần mà lên ngôi làm Pharaoh, hai người đàn ông này không có dòng dõi vương thất Ai Cập nên cần thiết cưới hai vị con gái Pharaoh tiền nhiệm, là Ankhesenamun cùng [[Mutnedjmet]]. Vương quốc [[người Hitti]] trong thời kỳ Tân vương quốc đã có trường hợp Quốc vương [[Arnuwanda I]] kế vị [[Tudhaliya I]] bởi vì ông ta cưới con gái của Tudhaliya I tên là [[Ašmu-nikal]], tức kế vị với tư cách [[con rể]]. Và con trai của họ trở thành người trị vì tiếp theo, tức [[Tudhaliya III]]. Vì chế độ ''"Quân quyền"'', rất nhiều hoàng nữ cùng vương nữ ở triều đại Trung Đông có hiện tượng chia sẻ địa vị vốn dành cho hoàng hậu hoặc vương hậu của các vị Vua chúa, ví dụ như vị trí ''"Vợ của Thần Amun"'' (God's Wiffe of Amun) tại vương triều Ai Cập là dành cho các vương hậu và người kế tiếp là vương hậu của đời sau hoặc con gái của họ, hoặc như ''Padshah Begum'' của Đế chế Mughal dành cho hoàng hậu nhưng sau lại có hoàng nữ nắm giữ, địa vị ''[[Tawananna]]'' của người Hitti có thể chia sẻ cho con gái các vị quốc vương. Đặc biệt [[Đế quốc Sasan|thời kỳ Sasan]] còn có "''Banbishn'''; بانبشن」, đây dường như là một danh hiệu chung dành cho ''"Phụ nữ của triều đại"'', tức bao gồm con gái, chị em gái hoặc vợ của các vị Vua Sasan. Bên cạnh đó một số vị Vua Sasan có hiện tượng cưới chị em gái của mình làm vợ, nên sự rạch ròi của vị hiệu này càng mập mờ.
 
Tại Châu Âu, nữ giới "''Có quyền qua hôn phối''" cùng "''Có quyền sau khi hết dòng nam''" thể hiện hết sức thường xuyên, mà điển hình nhất là khi [[nhà Tudor]] trở thành biểu tượng hợp nhất giữa Lancaster cùng York đều là dựa vào quyền lợi từ dòng dõi của nữ hệ: trong khi [[Henry VII của Anh|Henry VII]] đại diện nhà Lancaster qua dòng dõi của mẹ ông, [[Lady Margaret Beaufort]], còn nhà York lại là từ vợ ông, [[Elizabeth xứ York]]. Sau thời kỳ Tudor, Nghị viện Anh dần chấp thuận phương pháp cho nữ giới kế vị, trong trường hợp nam giới dòng chính đều đã qua đời hết hoặc mất tư cách kế vị, với sự công nhận chính thức đầu tiên là [[Mary I của Anh]]{{NoteTag|Trước đó [[Hoàng hậu Matilda]] tự xưng không được công nhận, mà danh hiệu Matilda tự xưng cũng chỉ là "''Lady of the English''". Ngoài ra Lady [[Jane Grey]] thường bị xem là tiếm xưng gây tranh cãi, không được xem là chính thức.}}. Cũng từ ''"Đạo luật kế vị"'' thời [[Henry VIII của Anh|Henry VIII]] công nhận hậu duệ dòng nữ cũng có tư cách kế vị, đã khiến nhiều hậu duệ nữ giới từ các Công chúa Anh lần lượt lên ngai khi dòng nam trực hệ không còn, [[James I của Anh]] cùng [[George I của Anh]] đều kế vị ngai vàng Anh thông qua quyền lợi tiên quyết từ tổ tiên nữ giới của mình, [[Margaret Tudor]] và [[Sophia của Hannover]]. Khác với nước Anh thì tại nước Pháp, cùng hầu hết quốc gia áp dụng [[Luật Salic]], quyền của nữ giới đều bị cấm đoán, nhưng rất nhiều chính quyền áp dụng luật Salic lại thông qua ''"Quyền từ nữ"'' mà đạt được địa vị chính trị, hoặc là dạng ''"Hợp pháp hóa"'' trên phương diện chính danh. Bản thân chồng của [[Claude của Pháp|Vương nữ Claude]] là [[Francis I của Pháp|Francis, Công tước Valois]], vì để nối ngôi vị Quốc vương Pháp từ [[Louis XII của Pháp]] mà đã cưới Claude, con gái lớn của Vua Louis. Khác với nhà mẹ của Claude là Công quốc Bretagne, ngai vàng Pháp theo Luật Salic nên cấm truyền vị cho nữ giới, tuy rằng trước đó Claude đã trở thành ''"Nữ Công tước Bretagne"'' từ mẹ mình nhưng đã không thể kế thừa ngai vàng Pháp từ cha. Điều này khiến Vua Louis buộc phải chọn người chồng tương lai cho con gái, cũng tức là người sẽ thừa kế ngai vàng Pháp. Trong trường hợp này, Francis đã ''"hợp pháp"'' ngai vị về cho mình thông qua hôn nhân với ''"con gái của Vua trước"'', tức là Claude. Cũng do tình trạng [[Vương tế|Jure uxoris]], những người chồng của các Nữ chủ thường được ủng hộ trở thành ''"Đồng quân vương"'' và lấn át cả bản thân Nữ chủ, vì vậy quyền lợi của Nữ chủ đối với ngai vàng thông thường bị ép loại bỏ (nguyên nhân Edward III gây ra [[Chiến tranh Trăm Năm]]), hoặc phải có dàn xếp thỏa đáng, như Nghị viện Anh chấp nhận Nữ vương Mary I cưới Quốc vương [[Philip II của Tây Ban Nha]] với tư cách ''"Đồng quân vương"'', nhưng yêu cầu Philip sẽ từ bỏ tước vị ''"Quốc vương nước Anh"'' sau khi Mary qua đời. Một số vùng lãnh thổ được cai trị bởi các phiên vương cát cứ thời kỳ [[British Raj]] được gọi là ''[[Nawab]]'', phụ nữ xuất thân Vua chúa trị vì cũng bởi vì có được địa vị ưu việt của ''"Quân quyền"'', một phần nữa là do chính quyền Đế chế Anh thao túng, mà họ tuy là nữ giới nhưng cũng có thể kế vị bởi vì tình trạng thiếu nam duệ. Ví dụ này có xứ [[Bhopal]] với bốn người cai trị liên tiếp đều là nữ, [[Qudsia Begum]], [[Sikandar Begum]], [[Sultan Shah Jehan]] và [[Kaikhusrau Jahan]], ngoài ra ở lãnh địa [[Travancore]] còn có [[Sethu Lakshmi Bayi]].
Dòng 236:
Bên cạnh đó, cho dù có nhìn nhận vai trò duy trì dòng dõi của nữ giới hay không, các nền quân chủ thông thường đều có ý tưởng "''Không ưu tiên nữ giới''". Trong khi nền quân chủ Nho Khổng và phần lớn Hồi giáo đem hậu duệ nữ giới xem là ''"người ngoài"'', thì những nền quân chủ còn lại thì chỉ xem xét quyền kế vị từ ''"hậu duệ nam giới"'' của người phụ nữ. Trường hợp các vương nữ có thể kế vị trực tiếp thông thường là do dòng chính không còn nam giới, như ở quốc gia có nhiều Nữ chúa điển hình là nước Anh, [[Mary I của Anh]] và [[Elizabeth I của Anh]], đều kế vị khi người tiền nhiệm không có con trai và dòng dõi chính thống đã không còn nam duệ. Tiếp sau đó là [[Mary II của Anh]] cùng người em gái [[Anne, Nữ vương của Liên hiệp Anh]]. Lại như [[Tribhuwana Wijayatunggadewi]] của Đế chế Majapahit, là vì người anh khác mẹ [[Jayanegara]] bị ám sát và bà được mẹ ruột là Thái hậu [[Gayatri Rajapatni]] chỉ định kế vị. Con trai bà, [[Hayam Wuruk]], vì là con của một Nữ vương có dòng dõi vương thất tổ tiên nhà Rajasa, nên cũng có quyền kế vị sau đó. Lại như [[Raja Hijau]] của [[Pattani (vương quốc)|Vương quốc Pattani]], bà kế vị sau khi các vị quốc vương hoặc vương tử của dòng dõi bị ám sát hết thảy, nên bà mới kế vị như kiểu một nhiếp chính. Hoặc một trong những ''"Vua bà"'' sớm nhất trong thế giới Hồi giáo, [[Khadijah của Maldives]], lên ngôi vì giết người anh em trai có quyền thừa kế chính thống là [[Ahmed Shihabuddine của Maldives|Ahmed Shihabuddine]]. Có thể thấy tuy dòng dõi nam duệ của một vương nữ được chấp nhận kế vị, thế nhưng bản thân một vương nữ kế vị đều không phải lệ thường ở hầu hết các quốc gia này, chính ở [[Campuchia]] cũng có Nữ vương [[Ang Mey]], và người Campuchia không chấp nhận quốc gia để đàn bà trị vì nên đã nhờ sự giúp đỡ từ Thái Lan để đưa chú của bà là [[Ang Duong]] lên ngôi<ref>{{cite web|url=http://www.chiangmai-chiangrai.com/ayutthaya19.html|title=Ayutthaya, Capital of a Kingdom, Part 19|website=www.Chiangmai-Chiangrai.com|access-date=6 August 2017|archive-url=https://web.archive.org/web/20170806062649/http://www.chiangmai-chiangrai.com/ayutthaya19.html|archive-date=6 August 2017|url hỏng=yes}}</ref>.
 
Cuối [[thế kỉ 20]], năm [[1980]], [[Vương quốc Thụy Điển]] chấp nhận '''Quyền thừa kế tuyệt đối của con trưởng''' (''Absolute Primogeniture''), tức là "''Người con lớn nhất bất kể giới tính''" sẽ có thể thừa kế ngai vàng, và đó chính là [[Công chúa Victoria của Thụy Điển]]. Sau đó, [[Vương quốc Bỉ]] vào năm [[1991]] cũng thông qua dự luật này, khiến [[Công chúa Élisabeth, Nữ Công tước xứ Brabant]] trở thành Trữtrữ quân của Bỉ. Đến năm [[2015]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland]] bắt đầu rục rịch áp dụng quy tắc mới này, song do 3 thế hệ con trưởng của Nữ vương đều là nam giới, nên quyền thừa kế cho nữ chỉ biểu thị ở việc [[Công chúa Charlotte xứ Cambridge|Princess Charlotte xứ Cambridge]] ở danh sách bên trên em trai của mình, [[Hoàng tử Louis xứ Cambridge|Prince Louis xứ Cambridge]], trở thành một Công chúa Anh đầu tiên có quyền kế vị trên em trai của mình.
 
[[File:Anne Stuart.jpg|thumb|trái|250px|Nữ vương Anne - quyền thừa kế của bà vượt trên bất kì nam duệ nào của vương triều dù bản thân là nữ.]]
Dòng 247:
 
== Chức tước ==
Địa vị của Trữtrữ quân hết sức đặc biệt ở bất kỳ nền quân chủ nào, vì thế các nền quân chủ luôn có tước vị biểu hiện riêng. Thông thường địa vị của Trữtrữ quân được biểu hiện ở yếu tố ''"Xưng hô tên tước"'' hoặc ''"Chư hầu của ngai vàng"'', bất luận là xu hướng nào thì Trữtrữ quân cũng là ở cao nhất nếu so với thành viên khác trong gia tộc Vua chúa, cũng như các gia tộc thần tử khác phục tùng ngai vàng.
 
Các triều đại tại [[Đông Á]] ([[Trung Quốc (khu vực)|Trung Hoa]], [[Nhật Bản]], [[Việt Nam]], [[Triều Tiên]]), hoặc Hồi giáo như [[Đế quốc Ottoman]] cùng [[Đế quốc Mughal]], thường phong các tước vị mang yếu tố thân phận của Trữtrữ quân đối với nhà Vua, thông thường các trường hợp phổ biến đều là quan hệ cha con, vì thế tên của tước vị Trữtrữ quân tại các quốc gia này đều mang sắc thái ''"Con trai sẽ kế vị của nhà Vua"'' và không có đất phong. Trong khi đó, các quốc gia [[Châu Âu]] thường là một tước hiệu chư hầu và cai quản một lãnh thổ nhất định, vai vế của Trữtrữ quân sẽ không khiến hình thái từ thay đổi, nếu có thì chỉ thay đổi theo giới tính của người nắm giữ tước vị. Bên cạnh đó, tước vị ở Châu Âu còn có tình trạng ''"kèm theo"'', bởi vì nhiều nền quân chủ phân đất trực tiếp cho Trữtrữ quân, mà mỗi phần đất đai ấy lại có cơ quan hành chính riêng biệt. Lấy ví dụ cho chuyện này chính là vấn đề tước vị của Trữtrữ quân nước Anh, nhà nước này hiện có tên đầy đủ là '''Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland''' (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland), sự hình thành hiện tại của nhà nước này dựa trên Vương quốc Anh gốc (''Kingdom of England'') kết hợp với [[Vương quốc Scotland]] tạo thành "''Great Britain''" từ năm [[1707]], nên Trữtrữ quân của nhà nước này bên cạnh tiếp nhận tước vị "Prince of Wales" tại ''England'', thì còn phải nhận tước vị "Duke of Rothesay" tại ''Scotland'', ngoài ra còn đủ các loại tước vị lẻ tẻ phát sinh kèm theo. Cũng do tính chất này mà hệ thống tước hiệu của Châu Âu cực kỳ đồ sộ, đặc biệt là với những Vua chúa và Trữtrữ quân.
 
[[File:Prince_of_Wales's_feathers_Badge.svg|thumb|phải|250px|Một trong các huy hiệu biểu thị sự hiện diện của ''"Prince of Wales"'' - tước vị dành cho Trữtrữ quân của ngai vàng Anh.]]
 
;Các tước hiệu mang yếu tố tước xưng
* [[Thái tử]] cùng [[Thế tử]]: Trữtrữ quân ở các nước [[Đông Á]]. Trong đó ''"Thái tử"'' dùng được cho người kế vị của vị Vua mang tước [[Hoàng đế]] lẫn [[Quốc vương]], trong khi ''"Thế tử"'' chỉ dành cho người thừa kế của vị Vua mang tước Vương.
* [[Vali Ahd]]: Trữtrữ quân [[nhà Pahlavi]] và [[nhà Qajar]] của [[Vương quốc Iran]], đồng thời một số quốc gia ảnh hưởng văn hóa Ba Tư cũng sử dụng danh xưng này, cụm từ chính thức: "''Vala Hazrat-i-Humayun Vali Ahd, Shahzada (tên riêng)''". Đế chế Ottoman sử dụng nguyên một cụm danh xưng: "''Devletlû Najabatlu Valiahd-i Saltanat Şehzade-i Javanbahd (tên riêng) Efendi Hazretleri''". Một dạng khác là "Wali al-Ahd" và được dùng tại các nước [[Ả Rập]] như [[Jordan]], [[Kuwait]] và [[Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất]].
* [[Deputy Yang di-Pertuan Agong]]: Trữtrữ quân của nhà nước Liên bang quân chủ lập hiến [[Malaysia]]. Trong đó tại các bang quốc khác nhau lại xuất hiện các Tiểu vương khác nhau, và họ dùng tước vị "Tunku Mahkota", "Tengku Mahkota" hoặc "Yang di-Pertuan Muda" để chỉ Trữtrữ quân của riêng bang quốc của mình.
* [[Al-Amir as-Sa'id]]: Trữtrữ quân của Ai Cập thời kỳ [[Vương quốc Ai Cập]] vào [[thế kỉ 20]].
* [[Pengiran Muda Mahkota]]: Trữtrữ quân của [[Brunei]]. Thuộc hệ ngữ Malay.
* [[Vua La Mã Đức|King of the Romans]]: Trữtrữ quân của [[Thánh chế La Mã]].
* [[Tsesarevich]]: Trữtrữ quân của [[Đế quốc Nga]].
* [[Prince Imperial]]: Trữtrữ quân của [[Đế quốc Brazil]], [[Đế quốc Mexico]] và [[Đế quốc Pháp]].
* [[Prince Royal]]: Trữtrữ quân của thời kỳ [[Cách mạng Pháp]], [[Quân chủ tháng Bảy]] và [[Bồ Đào Nha]] từ năm 1815.
* [[Le Dauphin]]: Trữtrữ quân của các triều đại [[dòng họ Valois|Valois]] và [[dòng họ Bourbon|Bourbon]] của [[Pháp]].
* [[Prince of Scotland]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Scotland]], ít được dùng hơn so với ''"Duke of Rothesay"''.
* [[Hereditary Prince]]: Trữtrữ quân của các [[Thân vương quốc]], như [[Liechtenstein]], [[Monaco]] hoặc các [[Công quốc]] như [[Parma]] hoặc [[Lorraine]]. Tước hiệu này cũng từng được dùng ở Vương quốc, như [[Vương quốc Đan Mạch]].
* [[Grand Prince of Tuscany]]: Trữtrữ quân của Đại công quốc [[Tuscany]].
* [[Uparaja]]: Trữtrữ quân của các quốc gia Phật giáo như [[Thái Lan]], [[Miến Điện]], [[Campuchia]] cùng [[Lào]].
 
;Các tước hiệu mang yếu tố chư hầu
* [[Prince of Wales]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Anh]].
* [[Príncipe de Asturias]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Tây Ban Nha]], trước đó chỉ riêng [[Vương quốc Castilla]].
* [[Príncep de Girona]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Aragon]], trước khi sát nhập với ngai vàng Castilla.
* [[Príncipe do Brasil]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Bồ Đào Nha]] từ 1645 đến 1815.
* [[Príncipe da Beira]]: Dành cho người thừa kế của Trữtrữ quân của ngai vàng Bồ Đào Nha.
* [[Duke of Barcelos]]: Dành cho người thừa kế của Trữtrữ quân của ngai vàng Bồ Đào Nha, một dạng tước kèm theo của ''"Príncipe da Beira"''.
* [[Prince of Orange]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Hà Lan]].
* [[Prince of Viana]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Navarre]].
* [[Prince of Piedmont]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Sardegna]].
* [[Prince of Tarnovo]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Bulgaria]].
* [[Duke of Cornwall]]: Trữtrữ quân của Vương quốc Anh, một tước vị kèm theo của ''"Prince of Wales"''.
* [[Duke of Rothesay]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Scotland]]. Sau khi hợp nhất với ngai vàng Anh, tước vị này kèm theo ''"Prince of Wales"''.
* [[Duke of Brabant]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Bỉ]].
* [[Duke of Braganza]]: Trữtrữ quân của Vương quốc Bồ Đào Nha từ năm 1640 sau khi [[:en:House of Braganza|nhà Braganza]] lên ngôi.
* [[Duke of Sparta]]: Trữtrữ quân của [[Vương quốc Hy Lạp]].
* [[Earl of Chester]]: Trữtrữ quân của Vương quốc Anh, một tước vị kèm theo của ''"Prince of Wales"''.
* [[Earl of Carrick]]: Trữtrữ quân của Vương quốc Scotland, hiện tại là một tước vị kèm theo của ''"Prince of Wales"''.
* [[Baron of Renfrew]]: Trữtrữ quân của Vương quốc Scotland, hiện tại là một tước vị kèm theo của ''"Prince of Wales"''.
* [[Lord of the Isles]]: Trữtrữ quân của Vương quốc Scotland, hiện tại là một tước vị kèm theo của ''"Prince of Wales"''.
 
Tại các quốc gia Châu Âu, hầu hết các nền quan chủ đều xưng tước Vương và tuy có cụm "''Crown Prince''" hoặc "''Hereditary Prince''" ám chỉ đến người thừa kế, nhưng ở ngôn ngữ tiếng Anh nó luôn là một cụm [[danh từ]] chung mà chưa phải là một tước vị chính thức. Từ [[thế kỉ 20]], nhiều quốc gia đã xem nó như một tước hiệu, như [[Thụy Điển]], [[Morocco]], [[Na Uy]] hoặc [[Đan Mạch]]... Trong báo đài thì ''Crown Prince'' thường được dịch thẳng là ''"Thái tử"'' dành cho nam và khi ở trạng thái nữ (''Crown Princess'') thì sẽ được dịch thành ''"Thái nữ"'' hoặc ''"Công chúa"'', hay gọn hơn là [[:zh:維多利亞王儲|Vương trữ]]. Các quốc gia Ả Rập hoặc Hồi giáo như [[Malaysia]], do vấn đề ngôn ngữ mà tước hiệu Trữtrữ quân của họ, như [''Wali al-Ahd''] hay [''Deputy Yang di-Pertuan Agong''], luôn được dịch thành ''Crown Prince'' trong báo đài quốc tế.
 
== Một số Trữtrữ quân trên thế giới ==
<center>
<gallery perrow="99">
Tập tin:2019 Reunião Bilateral com o Príncipe Charles - 48948389972 (cropped).jpg|[[Charles, Thân vương xứ Wales]], Trữtrữ quân của [[Khối Thịnh vượng chung Anh]]
Tập tin:Prince Fumihito Brazil 2015 (1).jpg|[[Fumihito|Fumihito, Thu Tiểu cung Hoàng tự điện hạ]], Trữtrữ quân của [[Nhật Bản]]
Tập tin:Catharina-Amalia Beatrix Carmen Victoria (2019).jpg|[[Catharina-Amalia, Công chúa xứ Orange]], Trữtrữ quân của [[Hà Lan]]
Tập tin:Prinses Elisabeth op 21 juli 2017.png|[[Công chúa Élisabeth, Nữ Công tước xứ Brabant|Élisabeth, Nữ Công tước xứ Brabant]], Trữtrữ quân của [[Bỉ]]
Tập tin:Guillaume av Luxemburg.jpg|[[Guillaume, Đại công thế tử của Luxembourg]], Trữtrữ quân của [[Luxembourg]]
Tập tin:Leonor de Borbón 2019 (cropped).jpg|[[Leonor, Nữ thân vương xứ Asturias|Leonor, Nữ Thân vương xứ Asturias]], Trữtrữ quân của [[Tây Ban Nha]]
Tập tin:Frederik,_Crown_Prince_of_Denmark_in_2018.jpg|[[Frederik, Thái tử Đan Mạch]], Trữtrữ quân của [[Đan Mạch]]
Tập tin:Crown Princess Victoria June 8, 2013 (cropped).jpg|[[Công chúa Victoria của Thụy Điển|Victoria, Nữ Công nước xứ Västergötland]], Trữtrữ quân của [[Thụy Điển]]
Tập tin:Crown Prince Haakon of Norway 2012-03-26 001.jpg|[[Haakon, Thái tử của Na Uy|Haakon, Thái tử Na Uy]], Trữtrữ quân của [[Na Uy]]
File:Moulay_Hassan_in_2018.jpg|[[Moulay Hassan, Thái tử của Morocco|Moulay Hassan]], Trữtrữ quân của [[Morocco]]
Tập tin:SalmanbinHamadbinIsaAlKhalifa.JPEG|[[Salman bin Hamad bin Isa Al Khalifa]], Trữtrữ quân của [[Bahrain]]
Tập tin:HSH The Hereditary Prince of Liechtenstein-2.jpg|[[Alois, Thế tử của Liechtenstein]], Trữtrữ quân của [[Liechtenstein]]
|[[Al-Muhtadee Billah]], Trữtrữ quân của [[Brunei]]
Tập tin:Mohammad bin Salman Al Saud.jpg|[[Mohammad bin Salman]], Trữtrữ quân của [[Ả Rập Xê Út]]
Tập tin:Crown Prince Hussein.jpg|[[Hussein bin Abdullah, Thái tử của Jordan|Hussein bin Abdullah]], Trữtrữ quân của [[Jordan]]
Tập tin:H.H. Sheikh Hamdan Bin Mohammed Bin Rashid Al Maktoum in Summit on the Global Agenda.jpg|[[Hamdan bin Mohammed Al Maktoum]], Trữtrữ quân của [[Dubai (tiểu vương quốc)|Dubai]]
File:His Highness Sheikh Mohammed Bin Zayed Al Nahyan, at Hyderabad House, in New Delhi on February 11, 2016.jpg|[[Mohammed bin Zayed Al Nahyan]], Trữtrữ quân của [[Abu Dhabi]]
File:Nawaf_Al-Ahmad_Al-Jaber_Al-Sabah_(cropped).jpg|[[Nawaf Al-Ahmad Al-Jaber Al-Sabah]], Trữtrữ quân của [[Kuwait]]
Tập tin:ʻUlukālala.jpg|[[Tupoutoʻa ʻUlukalala]], Trữtrữ quân của [[Tonga]]
Tập tin:Royal Prince of Bhutan (cropped).jpg|[[Jigme Namgyel Wangchuck]], Trữtrữ quân của [[Bhutan]]
</gallery>
</center>