Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triết học phương Tây”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 534:
Rời khỏi mảnh đất của triết học phân tích tại nước Anh và một số vùng của Hoa Kỳ để đến với châu Âu lục địa, ta sẽ thấy một bộ mặt hoàn toàn khác của triết học tại đây. Như đã nói, cũng như các nhà triết học phân tích, các triết gia châu Âu lục địa truy tìm câu trả lời cho những câu hỏi như: “Ý thức là gì” hay “Làm người thì có ý nghĩa gì?” song họ không phân tích từ ngữ “ý thức” và “làm người” để tìm ra đáp án cho những vấn đề này. Trái lại, họ tin rằng: ta phải nhìn thật sâu vào trải nghiệm mà ta đang có để tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này. Dù bắt nguồn từ Nietzsche và Kierkegaard từ thế kỷ 19, chủ nghĩa hiện sinh của thế kỷ 20 không thể được hiểu nếu không quy chiết đến các tác phẩm của Husserl. Rất nhiều những nhà triết học lục địa lớn đều đã học hoặc đã đọc Husserl. Điểm thú vị là, trong khi Husserl là một nhà toán học và mong muốn biến triết học thành một bộ môn khoa học tuyệt đối, nhiều môn đệ của ông lại là những nhà thơ, những tiểu thuyết gia cực kỳ xuất sắc'''.''' {{Sfn|Lawhead|2013|p=539}}
 
'''==== Edmund Husserl''' ====
 
'''[[Edmund Husserl]]''' sinh vào năm 1859, cũng là năm sinh của John Dewey. Động lực lớn trong các công trình của Husserl là “sự chắc chắn”. Ông kịch liệt chỉ trích thái độ duy nhiên (Naturalism), chính là thái độ cho rằng các khách thể có tính tuyệt đối và tất thảy mọi sự trên thế giới này đều có thể hoàn toàn giải thích bằng các môn khoa học tự nhiên. Khoa học, dù có khách quan đến đâu, cũng đều có nền tảng là từ ý thức của chính con người; xa rời khỏi nền tảng này chỉ dẫn ta đi đến những ngõ cụt. Vậy, nếu như ý thức chính là suối nguồn cho mọi hiểu biết của ta, Husserl cho rằng: ta sẽ phải tiếp cận nó theo một cách hoàn toàn khác.{{Sfn|Lawhead|2013|p=540-541}}
 
Hàng 548 ⟶ 547:
Phương pháp hiện tượng học này được ông gọi là những “giảm trừ” (reduction). Có ba bước giảm trừ là giảm trừ triết học, giảm trừ yếu tính và giảm trừ hiện tượng học. Giảm trừ triết học là làm điều mà Descartes đã làm: nghi ngờ hết thảy mọi sự, không coi cái gì là hiển nhiên hết, ta gạt mọi các tư tưởng trước đó ra ngoài để có thể tự mình bước đi. Giảm trừ yếu tính, như Husserl nói, là “đặt thế giới vào trong ngoặc đơn”, là tạm thời không để tâm, không chú ý đến sự hiện hữu của thế giới thiên nhiên mà chỉ chuyên chú đến đối tượng đang được ý thức mà ta hướng đến. Đến bước giảm trừ hiện tượng học, ý thức và thực tại gắn chặt với nhau thành một thực tại duy nhất. Thế giới ta đạt được lúc này không phải là thế giới tuyệt đối hay là thế giới như được nhắc đến trong sách vở, mà chính là thế giới ta đã thực sự nhìn thấy, thực sự sống với nó.{{Sfn|Trần Thái Đỉnh|1962|p=174-178}}
 
'''==== Martin Heidegger''' ====
 
'''[[Martin Heidegger]]''' là một trong số những gương mặt triết gia Đức nổi bật nhất của thế kỷ 20. Năm 1927, ông cho ra đời tác phẩm tiêu biểu và có ảnh hưởng nhất của mình, ''Hữu thể và Thời gian''. Heidegger biết rằng ông mang nợ Husserl rất nhiều nên đã đề tặng tác phẩm này cho người thầy của mình; tuy nhiên, về mặt triết học, Heidegger và Husserl có nhiều điểm khác biệt lớn. Nếu như Husserl tin rằng: bằng phương pháp hiện tượng học, các lớp trải nghiệm sẽ được bóc tách và kết quả của quá trình là một ý thức thuần túy thì Heidegger không cho rằng tồn tại cái gọi là “ý thức thuần túy” như vậy. Heidegger đặt trọng tâm triết học của mình vào sự hiện hữu ("tồn tại", ''Being''), thứ đi trước và đặt nền tảng cho tất cả những trải nghiệm mà ta có.{{Sfn|Lawhead|2013|p=546-547}}
 
Hàng 560 ⟶ 558:
Khép lại phần của Heidegger, ta hãy xem xét phương diện “hiện sinh” trong triết học của ông. Nhà triết học cho rằng, vì coi thế giới cố định là quá hiển nhiên mà ta bị nhiễm cái vẻ duy sự của nó. Ta quên đi sự hiện hữu của mình mà bị nhấn chìm trong thế giới. Một mối nguy khác nữa là tính cách “dụng cụ”. “Dụng cụ” là thứ nối dài cho khả năng tác động của ta: cái búa để ta đập, cái máy tính để ta làm việc… Nhưng việc dùng dụng cụ đặt ta trong mối tương quan với chúng, chỉ sinh hoạt với tinh thần dụng cụ thì sớm muộn gì chính ta cũng bị kéo xuống thành một sự vật.{{Sfn|Trần Thái Đỉnh|1962|p=364-365}} Để vượt lên trên những điều này, ta cần luôn tỉnh thức về sự hiện hữu của chính mình, luôn tiếp thông với thế giới để đưa những điều chưa thành hình ra ánh sáng. Và luôn làm mới bản thân, khai thác những tiềm năng của bản thân và “tự vượt qua chính mình để đến với cái khả hữu của mình”, đến với cái chí thiện.{{Sfn|Trần Thái Đỉnh|1962|p=366}}
 
'''==== Jean-Paul Sartre''' ====
 
Nhà triết học nổi tiếng nhất của chủ nghĩa hiện sinh có lẽ là [[Jean-Paul Sartre|'''Jean-Paul Sartre''']]. Ông là một nhà văn sắc bén, một nhà tâm lý có tài và là một nhà triết học đặc biệt.{{Sfn|Trần Thái Đỉnh|1962|p=298}} Các tác phẩm của ông đã lột tả được trải nghiệm và tâm lý của những con người đang sống trong thế kỷ 20 đầy biến động.{{Sfn|Lawhead|2013|p=558}} Ông từ chối giải thưởng [[Giải Nobel Văn học|Nobel Văn học]] vào năm 1964 vì không muốn có mối ràng buộc với các thiết chế. Sartre là người đã mang triết học hiện sinh “xuống đường”, thâm nhập và ánh hưởng sâu rộng đến vô số cuộc đời trong xã hội, đặc biệt là trong giới trẻ.{{Sfn|Trần Thái Đỉnh|1962|p=300}} Khi ông mất năm 1980, khoảng năm mươi nghìn người (chủ yếu là các học sinh, sinh viên) đã xuống lòng đường Paris đưa tiễn ông.{{Sfn|Lawhead|2013|p=559}}