Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sinh học và xu hướng tính dục”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Yui 2000 (thảo luận | đóng góp)
n Chính tả
Yui 2000 (thảo luận | đóng góp)
lỗi chú thích
Dòng 13:
Quan hệ nguyên nhân - kết quả, giữa tác động của hormone lên bào thai và sự phát triển của xu hướng tính dục, là giả thuyết có tính ảnh hưởng nhất.<ref name=":13">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Bailey JM, Vasey PL, Diamond LM, Breedlove SM, Vilain E, Epprecht M|date=September 2016|title=Sexual Orientation, Controversy, and Science|journal=Psychological Science in the Public Interest|volume=17|issue=2|pages=45–101|doi=10.1177/1529100616637616|pmid=27113562}}</ref><ref name=":3">{{Chú thích tạp chí|author-link=Jacques Balthazart|vauthors=Balthazart J|date=August 2011|title=Minireview: Hormones and human sexual orientation|journal=Endocrinology|volume=152|issue=8|pages=2937–47|doi=10.1210/en.2011-0277|pmc=3138231|pmid=21693676}}</ref> Theo cách diễn đạt đơn giản, sự phát triển não bộ của thai nhi bắt đầu ở trạng thái mặc định - "nữ". Sự hiện diện của nhiễm sắc thể Y ở nam giới thúc đẩy tinh hoàn phát triển. Cơ quan này chịu trách nhiệm tiết ra testosterone - hormone đóng vai trò chính trong việc kích hoạt các thụ thể androgen. Các thụ thể androgen điều hoà sự biểu hiện gen; nhờ vậy, bào thai và não bộ của bào thai được nam tính hoá. Ảnh hưởng của quá trình nam tính hoá khiến nam giới hình thành cấu trúc não bộ điển hình của nam, cũng như (trong đa số trường hợp) cảm thấy bị hấp dẫn bởi nữ giới. Ở những người đồng tính nam, giả thuyết cho rằng khi quá trình trên diễn ra, chỉ một lượng nhỏ testosterone tiếp xúc với các vùng não trọng yếu, hoặc đã có những biến động xảy ra tại các khoảng thời gian tối quan trọng. Ngoài ra, đối với ảnh hưởng của sự nam tính hoá, những người đồng tính nam có thể đã có mức độ tiếp nhận testosterone khác biệt. Ở phụ nữ, giả thuyết đề ra rằng sự tiếp xúc với testosterone ở mức cao của các vùng não trọng yếu sẽ làm tăng khả năng cá nhân bị thu hút bởi người cùng giới.<ref name=":13" /> Củng cố cho giả thuyết trên có nghiên cứu về [[Tỷ lệ chữ số|tỷ lệ độ dài các ngón tay]] (ngón trỏ và ngón áp út) của bàn tay phải - một dấu hiệu vững chắc cho việc thai nhi tiếp xúc với testosterone trước khi chào đời.  Dễ dàng nhận thấy, trung bình, những người đồng tính nữ có tỉ lệ ngón tay giống với tỉ lệ bình quân của nam giới hơn của nữ giới. Phát hiện này, khi được đối chiếu, lặp lại nhiều lần ở các nền văn hoá khác.<ref name=":422">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Breedlove SM|date=August 2017|title=Prenatal Influences on Human Sexual Orientation: Expectations versus Data|journal=Archives of Sexual Behavior|volume=46|issue=6|pages=1583–1592|doi=10.1007/s10508-016-0904-2|pmc=5786378|pmid=28176027}}</ref> Tuy khó có thể đo lường các ảnh hưởng trực tiếp do trở ngại từ nguyên nhân đạo đức nhưng trong các cuộc thí nghiệm trên động vật, việc khống chế lượng hormone giới tính mà bào thai tiếp xúc đã dẫn đến hiện tượng con cái có các hành vi điển hình của con đực trong suốt cuộc đời, và ngược lại.<ref name=":13" /><ref name=":422" /><ref name=":3" /><ref name=":8">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Roselli CE|date=July 2018|title=Neurobiology of gender identity and sexual orientation|journal=Journal of Neuroendocrinology|volume=30|issue=7|pages=e12562|doi=10.1111/jne.12562|pmc=6677266|pmid=29211317}}</ref>
 
Phản ứng miễn dịch của cơ thể người mẹ trong quá trình thai nhi phát triển được tích cực xem như nguyên nhân dẫn đến đồng tính luyến ái và song tính luyến ái ở nam giới.<ref name=":2">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Balthazart J|date=January 2018|title=Fraternal birth order effect on sexual orientation explained|journal=Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America|volume=115|issue=2|pages=234–236|doi=10.1073/pnas.1719534115|pmc=5777082|pmid=29259109}}</ref> Nghiên cứu từ thập niên 90 phát biểu rằng người mẹ càng có nhiều con trai thì tỉ lệ người con trai ra đời tiếp theo là đồng tính nam càng cao. Trong thai kỳ, đối với người mẹ, tế bào nam giới xuất hiện trong hệ tuần hoàn sẽ được hệ miễn dịch xem là thành phần ngoại lai. Lúc này, cơ thể sản phụ sẽ thúc đẩy các kháng thể nhằm ngăn chặn sự ảnh hưởng của các tế bào nam. Các kháng thể này sẽ lại được giải phóng vào các bào thai nam (nếu có) trong tương lai và có thể cản trở kháng nguyên liên kết Y. Do kháng nguyên này giữ vai trò trong quá trình nam tính hoá não bộ nên sự cản trở của các kháng thể khiến vùng não chịu trách nhiệm cho hấp dẫn tình dục  trở nên giống với khu vực tương đương ở nữ giới điển hình, hay nói cách khác là cá nhân sẽ thấy thu hút bởi đàn ông. Người mẹ càng có nhiều con trai thì mức độ các kháng thể càng tăng; điều này dẫn đến [[Số lượng anh trai và thiên hướng tình dục|hiệu ứng thứ tự sinh giữa các anh em trai]]. Bằng chứng hóa sinh củng cố cho lập luận này đã được xác nhận trong một nghiên cứu tại phòng thí nghiệm vào năm 2017. Phát hiện đã chỉ ra rằng đối với những người đồng tính nam, đặc biệt là cá nhân có các anh trai, mẹ của họ có mức kháng thể chống lại protein-Y NLGN4Y cao hơn hẳn những người mẹ có con trai dị tính.<ref name=":2" /><ref name=":0b">{{Chú thích tạp chí|displayauthorsdisplay-authors=6|vauthors=Bogaert AF, Skorska MN, Wang C, Gabrie J, MacNeil AJ, Hoffarth MR, VanderLaan DP, Zucker KJ, Blanchard R|date=January 2018|title=Đồng tính nam và phản ứng miễn dịch của mẹ đối với protein liên kết Y NLGN4Y|journal=Bản lưu trữ của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ|volume=115|issue=2|pages=302–306|doi=10.1073/pnas.1705895114|pmc=5777026|pmid=29229842}}</ref> Giáo sư [[J. Michael Bailey]] đã mô tả phản ứng miễn dịch của thai phụ như mối liên hệ nguyên nhân - kết quả với với đồng tính luyến ái ở nam giới. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Bailey JM|date=January 2018|title=The Fraternal Birth Order Effect Is Robust and Important|journal=Archives of Sexual Behavior|volume=47|issue=1|pages=17–19|doi=10.1007/s10508-017-1115-1|pmid=29159754}}</ref> Hiệu ứng này, được ước chừng, xuất hiện ở khoảng 15-29% người đồng tính nam. Trong khi đó, ở những người đồng tính nam còn lại và những người song tính, xu hướng tính dục của họ được cho rằng có xuất phát từ các tương tác giữa gen và hormone.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Blanchard R|date=January 2018|title=Fraternal Birth Order, Family Size, and Male Homosexuality: Meta-Analysis of Studies Spanning 25 Years|journal=Archives of Sexual Behavior|volume=47|issue=1|pages=1–15|doi=10.1007/s10508-017-1007-4|pmid=28608293}}</ref><ref name=":2" />
 
Các thuyết xã hội hoá, từng rất nổi bật trong thập niên 90, ủng hộ ý kiến cho rằng sự khác biệt không hề hiện hữu khi trẻ em được sinh ra, và cá nhân sẽ dần hình thành vai trò giới cũng như xu hướng tính dục khi bắt đầu tiếp xúc, hòa nhập vào xã hội. Điều này dẫn đến một thí nghiệm y khoa mà trong đó các bé trai sơ sinh, sau khi gặp tai nạn như là phẫu thuật cắt bao quy đầu thất bại, sẽ được tiến hành phẫu thuật tái định giới thành các bé gái. Các bé sẽ được chăm sóc và nuôi dưỡng như một bé gái và không hề biết về những chuyện đã xảy ra. Tuy nhiên, trái với những dự đoán trước đó, các cá nhân trong cuộc thử nghiệm không trở nên nữ tính và cũng không cảm thấy bị hấp dẫn bởi đàn ông. Tất cả các trường hợp được công bố, khi trưởng thành, đều cảm thấy hấp dẫn mạnh mẽ bởi phụ nữ. Thất bại trong các cuộc thử nghiệm đã chứng minh rằng tác động của sự xã hội hóa không dẫn đến hành vi nữ tính ở nam giới, cũng không khiến nam giới cảm nhận sự thu hút từ đàn ông nhưng đã minh chứng sự tồn tại suốt đời của ảnh hưởng theo hệ thống gây ra bởi hormone lên não bộ của thai nhi trước khi ra đời. Các điều trên đã chỉ ra rằng xu hướng tính dục thuộc bản chất tự nhiên, không bắt nguồn từ sự nuôi dưỡng, chí ít là trong trường hợp ở nam giới.<ref name=":13" />{{Side box|metadata=No<!--This makes the box display on the mobile site-->|above='''Thể tích vùng não INAH-3 ở người'''|abovestyle=text-align:center|text={{Graph:Chart
Dòng 158:
Các nghiên cứu về liên kết NST và xu hướng tính dục đã chỉ ra sự hiện diện của vô số các yếu tố gen có thể gây ảnh hưởng nằm trên bộ gen. Năm 1993, [[Dean Hamer]] và các cộng sự đã công bố các phát hiện của họ qua những phân tích về mối liên hệ của một mẫu gồm 76 người anh/em đồng tính nam và gia đình của họ.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Hamer DH, Hu S, Magnuson VL, Hu N, Pattatucci AM|date=July 1993|title=Mối liên hệ giữa các đánh dấu ADN trên nhiễm sắc thể X và xu hướng giới tính nam|url=https://zenodo.org/record/1231257|journal=Tập san Science|volume=261|issue=5119|pages=321–7|bibcode=1993Sci...261..321H|doi=10.1126/science.8332896|pmid=8332896}}</ref> Hamer và cộng sự phát hiện những người đồng tính nam có nhiều người chú và anh em họ cũng là đồng tính nam ở bên ngoại hơn so với bên nội. Những người anh/em đồng tính có phả hệ bên ngoại như vậy sau đó được kiểm tra sự liên kết NST X, sử dụng 22 marker trên NST X để kiểm tra các alen tương tự. Trong một phát hiện khác, 33 trong số 40 cặp anh chị em được thử nghiệm được phát hiện có các alen tương tự ở vùng xa tâm động của [[Xq28]], cao hơn đáng kể so với tỷ lệ dự kiến là 50% đối với các cặp anh em ruột thịt. Gen này bị truyền thông gắn mác là "'''gen đồng tính'''", và điều này đã dấy lên nhiều tranh cãi đáng kể. Sanders và cộng sự vào năm 1998 đã báo cáo về nghiên cứu tương tự của họ, trong đó họ phát hiện ra rằng 13% số lượng những người bác và cậu ngoại của những người anh/em đồng tính là người đồng tính, trong khi con số này ở bên nội là 6%.<ref name="Born gay321">{{Chú thích sách|title=Sinh ra là đồng tính nam: Tâm lý học của xu hướng giới tính|last=Wilson|first=Glenn|last2=Rahman|first2=Qazi|date=2008|publisher=Nhà xuất bản Peter Owen|isbn=9780720613094|edition=2nd|language=en|name-list-format=vanc}}</ref>
 
Một phân tích sau đó của Hu và cộng sự đã giúp tái khẳng định và tinh chỉnh những phát hiện trước đó. Nghiên cứu này tiết lộ 67% những người anh/em đồng tính trong một mẫu mới đủ lớn có chung một marker trên NST X ở Xq28.<ref name="Huetal95">{{Chú thích tạp chí|displayauthorsdisplay-authors=6|vauthors=Hu S, Pattatucci AM, Patterson C, Li L, Fulker DW, Cherny SS, Kruglyak L, Hamer DH|date=November 1995|title=Mối liên hệ giữa xu hướng tính dục và nhiễm sắc thể Xq28 ở nam nhưng không ở nữ|url=https://zenodo.org/record/1233407|journal=Nature Genetics|type=bản thảo đã gửi|volume=11|issue=3|pages=248–56|doi=10.1038/ng1195-248|pmid=7581447}}</ref> Hai nghiên cứu khác (Bailey và cộng sự, 1999; McKnight và Malcolm, 2000) lại không tìm thấy ưu thế trong số lượng của họ hàng đồng tính bên nhà ngoại của những người đồng tính nam.<ref name="Born gay321" /> Một nghiên cứu của Rice và cộng sự năm 1999 đã thất bại trong việc tái dựng lại kết quả liên kết Xq28.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Vilain E|year=2000|title=Di truyền học với sự phát triển của giới tính|journal=Báo cáo hàng năm các nghiên cứu về giới tính|volume=11|pages=1–25|pmid=11351829}}</ref> Phân tích tổng hợp tất cả dữ liệu về liên kết hiện có chỉ ra mối liên hệ đáng kể với Xq28, nhưng cũng chỉ ra rằng phải có sự xuất hiện của các gen bổ sung để giải thích toàn bộ khả năng di truyền của xu hướng tính dục.<ref name="HamerRiceSciencemeta">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Hamer DH, Rice G, Risch N, Ebers G|date=1999|title=Di truyền và xu hướng tình dục nam|journal=Tập san Science|volume=285|issue=5429|page=803|doi=10.1126/science.285.5429.803a|doi-access=free}}</ref>
 
Mustanski và cộng sự (2005) đã thực hiện quét toàn bộ bộ gen (thay vì chỉ quét NST X) của các cá nhân và gia đình đã được báo cáo trước đây trong các nghiên cứu của Hamer và cộng sự (1993) cũng như Hu và cộng sự (1995), bên cạnh các mẫu mới. Trong mẫu tổng quát này, họ không tìm thấy mối liên hệ với Xq28.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Mustanski BS, Dupree MG, Nievergelt CM, Bocklandt S, Schork NJ, Hamer DH|date=March 2005|title=Một bản quét toàn bộ bộ gen về xu hướng tính dục ở nam|url=http://mypage.iu.edu/~bmustans/Mustanski_etal_2005.pdf|journal=Di truyền học loài người|volume=116|issue=4|pages=272–8|doi=10.1007/s00439-004-1241-4|pmid=15645181|archive-url=https://web.archive.org/web/20050415233637/http://mypage.iu.edu/~bmustans/Mustanski_etal_2005.pdf|archive-date=2005-04-15}}</ref>
 
Kết quả từ một nghiên cứu liên kết di truyền đa trung tâm lớn và toàn diện đầu tiên về xu hướng tính dục của nam giới đã được báo cáo bởi một nhóm các nhà nghiên cứu độc lập tại Hiệp hội Di truyền học Loài người Hoa Kỳ vào năm 2012.<ref name="Sandersetal2014">{{Chú thích tạp chí|displayauthorsdisplay-authors=6|vauthors=Sanders AR, Martin ER, Beecham GW, Guo S, Dawood K, Rieger G, Badner JA, Gershon ES, Krishnappa RS, Kolundzija AB, Duan J, Gejman PV, Bailey JM|date=May 2015|title=Genome-wide scan demonstrates significant linkage for male sexual orientation|journal=Psychological Medicine|volume=45|issue=7|pages=1379–88|doi=10.1017/S0033291714002451|pmid=25399360}}</ref> Quần thể nghiên cứu bao gồm 409 cặp anh em đồng tính độc lập, với hơn 300.000 [[Đa hình đơn nucleotide|marker đa hình đơn nucleotide]] của họ được phân tích. Dữ liệu đã tái hiện rõ nét các phát hiện về Xq28 của Hamer, chúng được xác nhận bằng cả ánh xạ điểm LOD hai điểm và đa điểm (MERLIN). Mối liên kết đáng kể cũng được phát hiện trong vùng tâm động của NST số 8, trùng khớp với một trong những vùng được phát hiện trong nghiên cứu trên toàn bộ bộ gen trước đây của phòng thí nghiệm Hamer. Các tác giả kết luận rằng "những phát hiện của chúng tôi, được thực hiện dựa trên bối cảnh từ những nghiên cứu trước đây, cho thấy rằng sự biến đổi gen ở mỗi khu vực này góp phần phát triển các đặc điểm tâm lý quan trọng của xu hướng tính dục nam". Xu hướng tính dục nữ dường như không liên quan đến Xq28,<ref name="Huetal95" /><ref name="Ngunetal2014">{{Chú thích sách|url=http://gaystudies.genetics.ucla.edu/UCLA%20Twin%20Sexual%20Orientation%20Study/Read%20More_files/Ngun.pdf|title=The Biological Basis of Human Sexual Orientation: Is There a Role for Epigenetics?|vauthors=Ngun TC, Vilain E|date=2014|isbn=9780128002223|series=Advances in Genetics|volume=86|pages=167–84|doi=10.1016/B978-0-12-800222-3.00008-5|issn=0065-2660|pmid=25172350|access-date=20 March 2016|archive-url=https://web.archive.org/web/20160331225443/http://gaystudies.genetics.ucla.edu/UCLA%20Twin%20Sexual%20Orientation%20Study/Read%20More_files/Ngun.pdf|archive-date=2016-03-31}}</ref> mặc dù nó có vẻ vẫn có thể được di truyền lại ở mức độ vừa phải.<ref name="Sandersetal2014" />
 
Ngoài sự đóng góp của [[nhiễm sắc thể giới tính]], một yếu tố trong [[nhiễm sắc thể thường]] được cho là có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của xu hướng tính dục đồng giới cũng đã được đề xuất. Trong một quần thể nghiên cứu bao gồm hơn 7000 người tham gia, Ellis và cộng sự (2008) nhận thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa người đồng tính và dị tính về tần số xuất hiện của nhóm máu A. Họ cũng phát hiện ra rằng tỷ lệ người đồng tính nam và nữ có [[Hệ thống nhóm máu Rh|Rh âm tính]] so với người dị tính là "cao bất thường". Vì cả nhóm máu và yếu tố Rh đều là những đặc điểm di truyền được kiểm soát bởi các [[alen]] nằm trên NST 9 và NST 1 tương ứng, nghiên cứu đã đặc biệt chỉ ra mối liên hệ tiềm ẩn giữa các gen trên NST thường và khuynh hướng đồng tính luyến ái.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Ellis L, Ficek C, Burke D, Das S|date=February 2008|title=Eye color, hair color, blood type, and the rhesus factor: exploring possible genetic links to sexual orientation|journal=Archives of Sexual Behavior|volume=37|issue=1|pages=145–9|doi=10.1007/s10508-007-9274-0|pmid=18074215}}</ref><ref name="AnHomGenetics">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=EftT_1bsPOAC|title=Animal Homosexuality: A Biosocial Perspective|vauthors=Poiani A|date=2010|publisher=Nhà xuất bản Đại học Cambridge (CUP)|isbn=978-1139490382|pages=55–96}}</ref>
Dòng 170:
Trong các cuộc phỏng vấn với cánh báo chí, các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh không nên đánh đồng bằng chứng về ảnh hưởng của di truyền với bản thân thuyết xác định di truyền. Theo Dean Hamer và Michael Bailey, khía cạnh di truyền chỉ là một trong nhiều nhân tố cho đồng tính luyến ái.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.independent.co.uk/news/the-gay-gene-is-back-on-the-scene-1536770.html|tựa đề=The 'gay gene' is back on the scene|tác giả=Connor|tên=Steve|ngày=31 October 1995|website=[[Nhật báo The Independent]]}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.telegraph.co.uk/science/science-news/10637532/Being-homosexual-is-only-partly-due-to-gay-gene-research-finds.html|tựa đề=Being homosexual is only partly due to gay gene, research finds|tác giả=Knapton|tên=Sarah|ngày=13 February 2014|website=Nhật báo The Telegraph|nhà xuất bản=[[Tập đoàn Truyền thông Telegraph]]}}</ref>
 
Vào năm 2017, ''[[Báo cáo khoa học|tạp chí Scientific Reports]]'' đã xuất bản một bài báo với một [[Nghiên cứu tương quan toàn bộ nhiễm sắc thể|nghiên cứu tương quan toàn bộ NST]] về xu hướng tính dục của nam giới. Nghiên cứu bao gồm 1.077 người đồng tính nam và 1.231 người dị tính nam. Một gen có tên ''[[SLITRK6]]'' trên [[Nhiễm sắc thể 13|nhiễm sắc thể số 13]] đã được xác định.<ref name="Nature21">{{Chú thích tạp chí|displayauthorsdisplay-authors=6|vauthors=Sanders AR, Beecham GW, Guo S, Dawood K, Rieger G, Badner JA, Gershon ES, Krishnappa RS, Kolundzija AB, Duan J, Gejman PV, Bailey JM, Martin ER|date=December 2017|title=Genome-Wide Association Study of Male Sexual Orientation|journal=Scientific Reports|language=En|volume=7|issue=1|pages=16950|bibcode=2017NatSR...716950S|doi=10.1038/s41598-017-15736-4|pmc=5721098|pmid=29217827}}</ref> Nghiên cứu này hỗ trợ một nghiên cứu khác được thực hiện bởi một nhà thần kinh học có tên là [[Simon LeVay]]. Nghiên cứu của LeVay cho rằng [[vùng dưới đồi]] của người đồng tính nam khác với người dị tính nam.<ref name="LeVay 1991">{{Chú thích tạp chí|vauthors=LeVay S|date=August 1991|title=A difference in hypothalamic structure between heterosexual and homosexual men|journal=Tập san Science|volume=253|issue=5023|pages=1034–7|bibcode=1991Sci...253.1034L|doi=10.1126/science.1887219|pmid=1887219}}</ref> SLITRK6 hoạt động ở não giữa, nơi có vùng dưới đồi. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng [[Thụ thể thyrotropin|thụ thể hormone kích thích tuyến giáp]] (TSHR) trên NST 14 cho thấy sự khác biệt về trình tự giữa người đồng tính nam và người dị tính nam.<ref name="Nature21" /> [[Bệnh Basedow|Bệnh Graves]] được cho là có liên quan đến sự bất ổn trong TSHR, đồng thời, nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng bệnh Graves phổ biến ở nam giới đồng tính hơn nam giới dị tính.<ref name="nielsen2013">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Frisch M, Nielsen NM, Pedersen BV|date=January 2014|title=Same-sex marriage, autoimmune thyroid gland dysfunction and other autoimmune diseases in Denmark 1989-2008|journal=European Journal of Epidemiology|volume=29|issue=1|pages=63–71|doi=10.1007/s10654-013-9869-9|pmid=24306355}}</ref> Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng người đồng tính có trọng lượng cơ thể thấp hơn người dị tính. Người ta cho rằng hormone TSHR hoạt động quá mức đã làm giảm trọng lượng cơ thể ở những người đồng tính, mặc dù điều này vẫn chưa được chứng minh.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Deputy NP, Boehmer U|date=August 2010|title=Determinants of body weight among men of different sexual orientation|journal=Preventive Medicine|volume=51|issue=2|pages=129–31|doi=10.1016/j.ypmed.2010.05.010|pmid=20510272}}</ref><ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Blanchard R, Bogaert AF|date=December 1996|title=Biodemographic comparisons of homosexual and heterosexual men in the Kinsey Interview Data|journal=Archives of Sexual Behavior|volume=25|issue=6|pages=551–79|doi=10.1007/BF02437839|pmid=8931880}}</ref>
 
Vào năm 2018, Ganna và cộng sự đã thực hiện một [[Nghiên cứu tương quan toàn bộ nhiễm sắc thể|nghiên cứu tương quan toàn bộ NST]] khác về xu hướng tính dục của nam giới và nữ giới với dữ liệu từ 26.890 người có ít nhất một bạn tình đồng giới và 450.939 người đối chứng. Dữ liệu trong nghiên cứu được phân tích tổng hợp và thu thập từ nghiên cứu của [[Ngân hàng sinh học Vương quốc Anh|Ngân hàng sinh học Anh]] và [[23andMe]]. Các nhà nghiên cứu đã xác định bốn biến thể phổ biến hơn trên NST 7, 11, 12 và 15 ở những người báo cáo từng có ít nhất một trải nghiệm tình dục đồng giới. Các biến thể trên NST 11 và 15 là đặc trưng cho nam giới, với biến thể trên NST 11 nằm ở gen khứu giác và biến thể trên NST số 15 trước đây có liên quan đến chứng hói đầu ở nam giới. Bốn biến thể cũng tương quan với các rối loạn về mặt tâm trạng và sức khỏe tâm lý; rối loạn trầm cảm nặng và tâm thần phân liệt ở nam và nữ, và rối loạn lưỡng cực ở nữ. Tuy nhiên, không có biến thể nào trong số bốn biến thể có thể dự đoán xu hướng tính dục một cách đáng tin cậy.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.sciencemag.org/news/2018/10/giant-study-links-dna-variants-same-sex-behavior|tựa đề=Giant study links DNA variants to same-sex behavior|tác giả=Price|tên=Michael|ngày=2018-10-19|website=Tập san Science {{!}} AAAS|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2019-01-21}}</ref>
Dòng 195:
 
=== Các nghiên cứu về cấu trúc bộ não ===
Một số phần của [[Não người|não]] đã được báo cáo là lưỡng hình giới tính; nghĩa là chúng khác nhau giữa nam và nữ. Cũng đã có báo cáo về các biến thể trong cấu trúc não tương ứng với xu hướng tính dục. Năm 1990, [[Dick Swaab]] và Michel A. Hofman đã chỉ ra sự khác biệt về kích thước của [[Nhân thượng bì|SCN]](suprachiasmatic nucleus - nhân trên chéo - một cấu trúc thần kinh trong não) giữa nam giới đồng tính  và dị tính.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Swaab DF, Hofman MA|date=December 1990|title=Một hạt nhân trên chéo phóng to ở nam giới đồng tính|url=https://pure.knaw.nl/portal/files/488706/14928_285_swaab.pdf|journal=Nghiên cứu não|volume=537|issue=1–2|pages=141–8|doi=10.1016/0006-8993(90)90350-K|pmid=2085769}}</ref> Năm 1992, Allen và Gorski đã báo cáo sự khác biệt liên quan đến xu hướng tính dục ở [[Ủy ban trước|anterior commissure]] [[Ủy ban trước|– mép chất trắng trước/bụng]],<ref name="pmid1496013">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Allen LS, Gorski RA|date=August 1992|title=Xu hướng tính dục và kích thước của thùy trước trong não người|journal=Tài liệu xuất bản hàng năm của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ|volume=89|issue=15|pages=7199–202|bibcode=1992PNAS...89.7199A|doi=10.1073/pnas.89.15.7199|pmc=49673|pmid=1496013}}</ref> nhưng nghiên cứu này đã bị bác bỏ bởi nhiều nghiên cứu khác, một trong số đó phát hiện ra rằng toàn bộ sự khác biệt là do một người ngoại lai gây ra.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Byne W, Parsons B|date=March 1993|title=Xu hướng tính dục của con người. Các lý thuyết sinh học đã được đánh giá lại|journal=Tài liệu lưu trữ của Tâm thần học tổng quan|volume=50|issue=3|pages=228–39|doi=10.1001/archpsyc.1993.01820150078009|pmid=8439245}}</ref><ref name="Byne 2001">{{Chú thích tạp chí|displayauthorsdisplay-authors=6|vauthors=Byne W, Tobet S, Mattiace LA, Lasco MS, Kemether E, Edgar MA, Morgello S, Buchsbaum MS, Jones LB|date=September 2001|title=Các nhân kẽ của vùng dưới đồi trước của con người: điều tra về sự thay đổi theo giới tính, xu hướng tính dục và tình trạng nhiễm HIV|journal=Nội tiết tố và Hành vi|volume=40|issue=2|pages=86–92|doi=10.1006/hbeh.2001.1680|pmid=11534967}} {{Liên kết hỏng|date=March 2020}}</ref><ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Lasco MS, Jordan TJ, Edgar MA, Petito CK, Byne W|date=May 2002|title=A lack of dimorphism of sex or sexual orientation in the human anterior commissure|journal=Brain Research|volume=936|issue=1–2|pages=95–8|doi=10.1016/s0006-8993(02)02590-8|pmid=11988236}}</ref>
 
Nghiên cứu về sự khác biệt sinh lý giữa não nam và nữ dựa trên ý tưởng rằng con người có não nam hoặc nữ, và điều này phản ánh sự khác biệt về hành vi giữa hai giới. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thiếu cơ sở khoa học vững chắc cho điều này. Mặc dù một số sự khác biệt nhất quán đã được xác định, bao gồm kích thước của não và của các vùng não cụ thể, não của nam và nữ rất giống nhau.<ref>Cahill, 2006; Lenroot và Giedd, 2010; McCarthy và cộng sự, 2009; Sakuma, 2009</ref><ref>Berenbaum and Beltz, 2016.</ref>
Dòng 236:
 
=== Học thuyết 'Từ khác biệt đến khiêu gợi' (EBE) ===
[[Daryl Bem]], một nhà tâm lý học xã hội đến từ [[Đại học Cornell]], đã hình thành lý thuyết cho rằng sự ảnh hưởng của những yếu tố sinh học đối với xu hướng tính dục có thể bị tác động bởi những trải nghiệm thời thơ ấu. Tính cách của một đứa trẻ có thể khiến nó yêu thích một số hoạt động nhất định hơn. Chính do sự ảnh hưởng của tính cách (vốn bị ảnh hưởng bởi những yếu tố sinh học như là nhân tố di truyền), một vài đứa trẻ sẽ có cùng sở thích chơi với những đứa trẻ cùng giới khác. Một số khác sẽ có sở thích đặc trưng của giới khác. Điều này sẽ khiến đứa trẻ theo chuẩn giới cảm thấy khác biệt so với trẻ khác giới, trong khi đứa trẻ không theo chuẩn giới sẽ cảm thấy khác biệt so với trẻ cùng giới. Theo như Bem, cảm giác khác biệt này sẽ làm gợi lên tâm lý hưng phấn khi đứa trẻ ở gần những đứa trẻ khác giới mà nó xem là khác biệt. Bem lý luận rằng theo thời gian sự hưng phấn về mặt tâm lý này sẽ được chuyển hóa thành sự hưng phấn tình dục: trẻ sẽ bị hấp dẫn tình dục với giới mà chúng xem là khác biệt (exotic). Thuyết này được biết đến với tên gọi "Từ khác biệt đến khiêu gợi".<ref name="Bem">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Bem DJ|date=December 2000|title=Exotic becomes erotic: interpreting the biological correlates of sexual orientation|url=http://www.kluweronline.com/art.pdf?issn=0004-0002&volume=29&page=531|journal=Archives of Sexual Behavior|volume=29|issue=6|pages=531–48|doi=10.1023/A:1002050303320|pmid=11100261}} [http://dbem.ws/Exotic%20Becomes%20Erotic.pdf PDF] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20070411083103/http://www.dbem.ws/Exotic%20Becomes%20Erotic.pdf |date=2007-04-11}}</ref> Wetherell và các cộng sự phát biểu rằng Bem "không có ý định biến thuyết của ông thành một khuôn mẫu nhất định cho tất cả trường hợp nhưng chỉ là một cách lý giải khái quát hoặc điển hình".<ref name="Wetherell">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=BAnvcxmzylQC&pg=PA177|title=The SAGE Handbook of Identities|last=Wetherell|first=Margaret|last2=Talpade Mohanty|first2=Chandra|date=2010|publisher=[[Sage Publications]]|isbn=978-1446248379|page=177|name-list-format=vanc}}</ref>
 
Hai bài phê bình học thuyết của Bem ở tạp chí ''[[Đánh giá tâm lý|Psychological Review]]'' kết luận rằng "những nghiên cứu được trích dẫn bởi Bem và những nghiên cứu khác cho thấy lý thuyết "Từ khác biệt đến khiêu gợi" không được củng cố bởi những bằng chứng khoa học".<ref name=":1a">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Peplau LA, Garnets LD, Spalding LR, Conley TD, Veniegas RC|date=April 1998|title=A critique of Bem's "Exotic Becomes Erotic" theory of sexual orientation|url=https://www.researchgate.net/publication/13707155|format=PDF|journal=Psychological Review|volume=105|issue=2|pages=387–94|doi=10.1037/0033-295X.105.2.387|pmid=9577243}}</ref> Bem bị chỉ trích vì dựa vào mẫu thí nghiệm không ngẫu nhiên gồm những người đồng tính nam từ những năm 1970 (thay vì thu thập dữ liệu mới) và vì đưa ra kết luận gây mâu thuẫn với dữ liệu ban đầu. Một "cuộc kiểm nghiệm dữ liệu ban đầu cho thấy rằng đa số những người tham gia thí nghiệm đều chơi với cả hai giới khi còn bé", và chỉ 9% người đồng tính nam nói rằng "không hoặc có rất ít" bạn là nam giới, và hầu hết người đồng tính nam (74%) nói rằng có "một người bạn cùng giới rất thân" ở tiểu học.<ref name=":1a" /> Hơn nữa, "71% người đồng tính nam nói họ cảm thấy khác biệt so với những người con trai khác, nhưng 38% người dị tính nam cũng cảm thấy như vậy. Tuy cảm giác khác biệt đối với người đồng tính nam lớn hơn, nhưng dữ liệu vẫn cho thấy những người dị tính nam vẫn thường cảm thấy khác biệt so với những bạn nam khác". Bem cũng công nhận rằng những người đồng tính nam thường có anh trai ([[Số lượng anh trai và thiên hướng tình dục|hiệu ứng thứ tự sinh anh em trai]]), và điều này dường như mâu thuẫn với thuyết nam đồng tính không chơi chung với nam giới. Bem trích dẫn những nghiên cứu giao văn hóa "dường như mâu thuẫn với thuyết EBE". Ví dụ như bộ lạc [[Người Sambia|Sambia]] ở Papua New Guinea, nơi những thanh thiếu niên bị thực hiện những hành động có tính chất đồng tính theo nghi thức; tuy nhiên một khi những đứa trẻ này đến tuổi trưởng thành, chỉ một số ít nam giới trở thành đồng tính - bằng tỷ lệ đồng tính ở Hoa Kỳ.<ref name=":1a" /> Thêm nữa, lý thuyết của Bem có hàm ý rằng nếu có thể thay đổi hành vi của một đứa trẻ thì sẽ có thể thay đổi xu hướng tính dục của nó, nhưng đa số các nhà tâm lý học không tin điều này là khả thi.<ref name="Lehmiller">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=I3JGDwAAQBAJ&pg=PA156|title=The Psychology of Human Sexuality|last=Lehmiller|first=Justin J.|date=2017-12-26|publisher=John Wiley & Sons|isbn=978-1-119-16471-5|pages=156–157|language=en|name-list-format=vanc}}</ref>
Dòng 251:
Brendan Zietsch của Viện Nghiên cứu Y học Queensland đề xuất lý thuyết thay thế rằng những người đàn ông thể hiện các đặc tính nữ trở nên hấp dẫn hơn đối với phụ nữ và do đó có nhiều khả năng kết đôi hơn, miễn là các gen liên quan không khiến họ hoàn toàn phủ nhận sự dị tính.<ref>{{Chú thích tạp chí|date=2008-10-23|title=Gender bending|url=http://www.economist.com/science/displaystory.cfm?story_id=12465295|journal=The Economist}}</ref>
 
Trong một nghiên cứu năm 2008, các tác giả của nó nói rằng "Có bằng chứng đáng kể cho thấy xu hướng tình dục của con người bị ảnh hưởng về mặt di truyền, vì vậy không biết làm thế nào mà sự đồng tính luyến ái, vốn có có xu hướng làm giảm khả năng sinh sản, vẫn được duy trì trong dân số với tần suất tương đối cao". Họ đặt giả thuyết rằng "trong khi các gen định hướng sự đồng tính luyến ái làm giảm khả năng sinh sản của người đồng tính, chúng có thể mang lại một số lợi thế cho những người dị tính mang chúng". Kết quả của họ gợi ý rằng "các gen định hướng đồng tính luyến ái có thể mang lại lợi thế kết đôi ở những người dị tính luyến ái, điều này có thể giúp giải thích sự tiến hóa và duy trì đồng tính luyến ái trong quần thể".<ref name="Zietsch 2008">{{Chú thích tạp chí|displayauthorsdisplay-authors=etal|vauthors=Zietsch B, Morley K, Shekar S, Verweij K, Keller M, Macgregor S|date=November 2008|title=Genetic factors predisposing to homosexuality may increase mating success in heterosexuals|journal=Tiến hóa và hành vi con người|volume=29|issue=6|pages=424–433|doi=10.1016/j.evolhumbehav.2008.07.002}}</ref> Tuy nhiên, trong cùng một nghiên cứu, các tác giả lưu ý rằng "không thể loại trừ các giải thích không di truyền thay thế" như một lý do khiến người dị tính trong cặp song sinh đồng tính-dị tính có nhiều bạn tình hơn, cụ thể trích dẫn "áp lực xã hội buộc cặp song sinh còn lại cư xử một cách dị tính hơn" (và do đó tìm được nhiều bạn tình hơn) như một ví dụ về một giải thích thay thế. Nghiên cứu thừa nhận rằng một số lượng lớn bạn tình có thể không dẫn đến thành công sinh sản lớn hơn, đặc biệt lưu ý rằng "không có bằng chứng liên quan đến số lượng bạn tình và thành công sinh sản thực tế, trong hiện tại hoặc trong quá khứ tiến hóa của chúng ta".<ref name="Zietsch 2008" />
 
Giả thuyết lợi thế dị tính đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ bởi một nghiên cứu 2004 của Ý chứng minh khả năng [[Fecundity|sinh sản]] ngày càng tăng ở những người có quan hệ mẫu hệ là phụ nữ của những người đồng tính nam.<ref name="Camperio-Ciani et al. 2004" /><ref name="camperio08" /> Như Hamer đã chỉ ra ban đầu,<ref>Hamer, D., Copeland, P. The Science of Desire: The Search for the Gay Gene and the Biology of Behavior (Simon and Schuster, 1994) {{ISBN|0-684-80446-8}}</ref> ngay cả sự gia tăng khiêm tốn về khả năng sinh sản ở phụ nữ mang "gen đồng tính" cũng có thể dễ dàng giải thích cho việc duy trì khả năng sinh sản ở mức cao trong dân số.<ref name="camperio08" />