Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quân đội Quốc gia Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Đã bị lùi lại
Thẻ: Đã bị lùi lại
Dòng 126:
Sau [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]], trong khi Quân đội Nhân dân Việt Nam của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] ở trong Nam tập kết ra Bắc thì Quân đội Quốc gia Việt Nam ở miền Bắc, trừ một số giải ngũ, cùng quân [[Pháp]] di chuyển dần xuống Nam vĩ tuyến 17. Vào tháng Chạp năm [[1954]] thì quân số trong Quân đội Quốc gia Việt Nam tổng cộng là 230.000 người, trong đó có 65.000 quân địa phương trợ lực cho 165.000 quân chính quy.<ref name="danchimviet">[http://www.danchimviet.com/archives/9788 "Các lực lượng trong nước trong chiến tranh 1960-1975"]{{Liên kết hỏng|date=2021-03-26 |bot=InternetArchiveBot }}</ref>
Sang năm sau, tức năm [[1955]], Quân đội Quốc gia Việt Nam chuyển sang nằm dưới quyền chính phủ [[Đệ Nhất Cộng hòa (Việt Nam Cộng hòa)|Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam]] của [[Tổng thống Việt Nam Cộng hòa|tổng thống]] [[Ngô Đình Diệm]] và trở thành hạt nhân của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]].

Hầu hết các tướng lĩnh cấp cao của Quân lực VNCH sau này đều từng là sĩ quan phục vụ cho Quân đội Quốc gia Việt Nam, ví dụ như: Thổng tống [[Nguyễn Văn Thiệu]], Tổng thống [[Dương Văn Minh]], tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] thống tướng [[Lê Văn Tỵ]], tướng [[Nguyễn Văn Hinh]], tướng [[Trần Văn Đôn]], tướng [[Nguyễn Văn Vỹ]], tướng [[Đỗ Cao Trí]], tướng [[Nguyễn Khánh]], tướng [[Phạm Văn Phú]]…
 
== Xem thêm ==