Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thuật ngữ giải phẫu thần kinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Thuật ngữ giải phẫu}}Bài viết này giải thích các thuật ngữ giải phẫu học nhằm để mô tả Hệ thầ…”
Thẻ: Người dùng thiếu kinh nghiệm thêm nội dung lớn Soạn thảo trực quan
 
AlphamaEditor, Executed time: 00:00:03.7496619 using AWB
 
Dòng 1:
{{Thuật ngữ giải phẫu}}Bài viết này giải thích các [[Terminologia Anatomica|thuật ngữ giải phẫu học]] nhằm để mô tả [[Hệ thần kinh trung ương|hệ thống thần kinh trung ương]] và [[Hệ thần kinh ngoại biên|ngoại biên]] - bao gồm [[Não|não bộ]], [[thân não]], [[tủy sống]] và [[Dây thần kinh|thần kinh]].
 
== Thuật ngữ giải phẫu thần kinh ==
[[Giải phẫu thần kinh học]] cũng giống như các chuyên ngành khác của giải phẫu học, đó là sử dụng thuật ngữ chuyên môn đặc thù để đề cập đến các cấu trúc giải phẫu. Chính nhờ việc sử dụng hệ thống thuật ngữ nên ngoài việc đảm bảo tính chính xác và nhất quán, mà còn giúp giảm thiểu tối đa sự mơ hồ và tối nghĩa của chúng. Sự đa dạng của thuật ngữ phụ thuộc sự khác nhau về mặt cấu trúc và chức năng. Các thuật ngữ thường bắt nguồn từ [[Tiếng Latinh|tiếng Latin]] và [[Tiếng Hy Lạp|Hy Lạp]], và cũng như các lĩnh vực giải phẫu học khác chúng được tiêu chuẩn hóa trên cơ sở được chấp thuận rộng rãi quốc tế (''[[Terminologia Anatomica]]'')'''''.'''''
 
Khi xét cơ thể người trong một [[tư thế giải phẫu tiêu chuẩn]], với cơ thể đứng thẳng và đối diện với người quan sát, hai tay buông thỏng và lòng bàn tay hướng về phía trước. Các loài vật khác cũng tương tự như vậy, nhằm thống nhất trong việc định khu giải phẫu theo một hướng nhất định, tuy rằng có sự khác biệt đáng kể bởi cấu tạo chi ở chúng.
 
=== Vị trí giải phẫu ===
{{Bài chi tiết|Thuật ngữ giải phẫu vị trí}}[[Thuật ngữ giải phẫu vị trí]] phụ thuộc vị trí và loài vật được mô tả đến.
 
Để hiểu được những thuật ngữ định hướng giải phẫu, ta xét một [[Hệ thần kinh trung ương|hệ thống thần kinh trung ương]] ở cá hay thằn lằn. Ở loài vật như thế thuật ngữ "rostral" chỉ phía mỏ , "caudal" phía đuôi, "ventral" phía bụng, và "dorsal" có nghĩa là hướng lưng. Xem bài [[thuật ngữ giải phẫu vị trí]] để hiểu rõ hơn về các thuật ngữ này.
 
Để phục vụ cho nhiều mục đích "trần thuật" giải phẫu. Thì nói đến vị trí và phương hướng không thể nhắc đến mặt phẳng và trục giải phẫu. Do cơ thể người nói chung và não bộ nói riêng là một vật thể trong [[không gian ba chiều]]; như vậy [[hệ quy chiếu]] cho mặt phẳng và trục giải phẫu được xác định dựa trên [[kĩ thuật lập thể]] (''stereotaxy'').
 
Các thuật ngữ thông dụng được sử dụng một cách đặc thù xuyên suốt chuyên ngành giải phẫu, gồm có ''[[Thuật ngữ giải phẫu vị trí|anterior / posterior]]'' phân biệt phần trước và phần sau của cấu trúc; ''[[Thuật ngữ giải phẫu vị trí|superior / inferior]]'' là phần trên và phần dưới, ''[[Thuật ngữ giải phẫu vị trí|medial / lateral]]'' là phần trong và phần ngoài so với đường giữa tượng trưng, và ''[[Thuật ngữ giải phẫu vị trí|proximal / distal]]'' là phần gần và phần xa so với điểm gốc.
 
Một số thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong [[giải phẫu thần kinh]]:
 
* ''Rostral'' và ''caudal'': Ở loài động vật với hệ thần kinh trung ương "tuyến tính", thuật ngữ rostral (bắt nguồn từ tiếng Latin rostrum với nghĩa là "mỏ") và anterior được xem là tương đồng về nghĩa; và caudal (bắt nguồn từ tiếng Latin cauda với nghĩa là "đuôi") tương tự như posterior. Tuy nhiên là do con người trong tư thế đứng thẳng, nên hệ thần kinh "bẻ cong" 90 độ tức là theo chiều dọc. Vị trí bắt đầu là từ nơi nối giữa gian não và trung não (cầu gian - trung não). Vì thế nên thuật ngữ cũng thay đổi ngay vị trí đó. Phía trên cầu gian - trung não, thuật ngữ mô tả lúc này giống với hệ thần kinh theo chiều ngang như ở động vật; rostral đồng nghĩa với anterior và caudal đồng nghĩa với posterior. Dưới cầu gian - trung não thuật ngữ rostral đồng nghĩa với superior và caudal đồng nghĩa với inferior.<ref name=":0">{{Cite book|title=Neuroanatomy through clinical cases|last=Hal.|first=Blumenfeld|date=2010|publisher=Sinauer Associates|isbn=9780878930586|edition=2nd|location=Sunderland, Mass.|oclc=473478856}}</ref>
 
* ''Dorsal'' và ''ventral'': Thuật ngữ dorsal (bắt nguồn từ tiếng Latin dorsum với nghĩa là "lưng") và superior được xem là tương đồng về nghĩa; và ventral (bắt nguồn từ tiếng Latin venter với nghĩa là "bụng") tương tự như inferior. Tương tự thuật ngữ thay đổi từ vị trí bắt đầu là từ nơi nối giữa gian não và trung não ở người. Phía trên cầu gian-trung não, thuật ngữ mô tả lúc này giống với hệ thần kinh theo chiều ngang như ở động vật; dorsal đồng nghĩa với superior và ventral đồng nghĩa với inferior. Tuy nhiên dưới cầu gian-trung não thuật ngữ dorsal đồng nghĩa với posterior và ventral đồng nghĩa với anterior.<ref name=":0"></ref>
 
* ''Rostral'' và ''caudal'': Ở loài động vật với hệ thần kinh trung ương "tuyến tính", thuật ngữ rostral (bắt nguồn từ tiếng Latin rostrum với nghĩa là "mỏ") và anterior được xem là tương đồng về nghĩa; và caudal (bắt nguồn từ tiếng Latin cauda với nghĩa là "đuôi") tương tự như posterior. Tuy nhiên là do con người trong tư thế đứng thẳng, nên hệ thần kinh "bẻ cong" 90 độ tức là theo chiều dọc. Vị trí bắt đầu là từ nơi nối giữa gian não và trung não (cầu gian - trung não). Vì thế nên thuật ngữ cũng thay đổi ngay vị trí đó. Phía trên cầu gian - trung não, thuật ngữ mô tả lúc này giống với hệ thần kinh theo chiều ngang như ở động vật; rostral đồng nghĩa với anterior và caudal đồng nghĩa với posterior. Dưới cầu gian - trung não thuật ngữ rostral đồng nghĩa với superior và caudal đồng nghĩa với inferior.<ref name=":0">{{Citechú bookthích sách|title=Neuroanatomy through clinical cases|last=Hal.|first=Blumenfeld|date=2010|publisher=Sinauer Associates|isbn=9780878930586|edition=2nd|location=Sunderland, Mass.|oclc=473478856}}</ref>
* ''Dorsal'' và ''ventral'': Thuật ngữ dorsal (bắt nguồn từ tiếng Latin dorsum với nghĩa là "lưng") và superior được xem là tương đồng về nghĩa; và ventral (bắt nguồn từ tiếng Latin venter với nghĩa là "bụng") tương tự như inferior. Tương tự thuật ngữ thay đổi từ vị trí bắt đầu là từ nơi nối giữa gian não và trung não ở người. Phía trên cầu gian-trung não, thuật ngữ mô tả lúc này giống với hệ thần kinh theo chiều ngang như ở động vật; dorsal đồng nghĩa với superior và ventral đồng nghĩa với inferior. Tuy nhiên dưới cầu gian-trung não thuật ngữ dorsal đồng nghĩa với posterior và ventral đồng nghĩa với anterior.<ref name=":0">< /ref>
* ''Contralateral'' nghĩa là đối bên và ''ipsilateral'' là cùng bên lấy mặt phẳng dọc làm gốc.
 
Hàng 35 ⟶ 33:
[[Mặt phẳng giải phẫu|Mặt phẳng]] và [[trục giải phẫu]] là tiêu chuẩn căn cứ vào đó để miêu tả các cấu tạo giải phẫu ở động vật. Ở người và nhiều động vật linh trưởng khác, trục hệ thống thần kinh trung ương không thẳng, mà thay vào đó bị lệch để có thể nhìn về phía trước khi cơ thể trong tư thế thẳng đứng. Điều này có ý nghĩa rằng là sự khác nhau về thuật ngữ phản ánh sự khác biệt về não bộ linh trưởng với toàn bộ các động vật có xương sống còn lại. Chẳng hạn như để miêu tả [[Não người|bộ não con người]], "rostral" vẫn mang nghĩa là "hướng về phía mỏ hay mõm", nhưng trong bất cứ tình huống nào thì ngay sau mặt không dùng "rostral", mà hàm ý rằng đó là trong [[khoang sọ]]. "Caudal" có nghĩa là "hướng về đuôi", nhưng không phải là "hướng về phía sau khoang sọ" (ám chỉ cho posterior). Trục rostral-caudal của hệ thống thần kinh trung ương người (màu hồng sẫm), lệch 90 độ tại trung não và tiếp tục cho đến thân não và tủy sống. Trong giải phẫu học người, thùy chẩm và phần phía sau đầu là posterior, không phải là dùng caudal.
 
"Superior" mang nghĩa là hướng về phía đỉnh đầu, và "inferior" là hướng về phía tận cùng gan chân khi đứng. Bộ não ngụ phía trên tủy sống ở người, và ở phía trước đối với các loài động vật bốn chân.
 
"Dorsal" có nghĩa là hướng ra phía lưng (người và động vật). Trong giải phẫu thần kinh học người, thì từ này lại bị "bóp méo" theo một cách nào đó, tức đồng nghĩa với từ "superior". Thuật ngữ "ventral" còn ám chỉ đến trục rostral-caudal của hệ thống thần kinh trung ương, và khi xét từ trung não trở lên thì thuật ngữ thay đổi.
 
Các mặt phẳng tham chiếu thường được sử dụng nhất đó là:
 
* ''Mặt phẳng trục'' hoặc ''ngang'' song song với mặt đất, lúc đó cơ thể người trong [[tư thế giải phẫu tiêu chuẩn]], nó chứa (đồng thời được xác định bởi) trục ngoài và trong của não.
 
* ''Mặt phẳng trán'', một mặt phẳng vuông góc với với mặt đất, cắt xuyên qua đường khớp trán đỉnh của hộp sọ (hoặc đi xuyên qua hai tai). Hay là bất kỳ mặt phẳng nào song song với mặt phẳng này. Không có khái niệm "mặt phẳng cạnh trán", mà chỉ có mặt phẳng dọc bên được sử dụng nhiều hơn.
 
* ''Mặt phẳng dọc'', một mặt phẳng vuông góc với với mặt đất, cắt dọc giữa hai lỗ mũi và phân chia hai bán cầu đại não thành nửa trái và nửa phải đều nhau. "Mặt phẳng giữa" cụ thể xác định rõ đường giữa, và phân chia cơ thể thành hai phần tạo nên tính đối xứng. Nó chứa đồng thời cả hai trục lưng-bụng và trục trong của não, và mặt phẳng ''dọc bên'' (hay đơn giản là ''bên'') được xem là bất cứ mặt phẳng nào song song với mặt phẳng dọc.
 
Hàng 50 ⟶ 46:
 
=== Chức năng ===
Các thuật ngữ chuyên môn được sử dụng cho dây thần kinh ngoại biên, gồm cả sợi đến và sợi đi tại vị trí nhất định.
 
Một ''[[sợi thần kinh đến]]'' tại vị trí nhất định, chẳng hạn như sợi đến thể vân.
 
Một ''[[Dây thần kinh ly tâm|sợi thần kinh đi]]'' ra từ vị trí nhất định, chẳng hạn là sợi ra vỏ não. Cần phải nhớ rằng các sợi thần kinh dẫn truyền tín hiệu theo hướng khác phía, nghĩa là sợi bên trái thuộc bán cầu não trái chi phối cho cơ quan đáp ứng bên phải.
 
=== Sợi thần kinh bắt chéo ===
Thuật ngữ cũng mô tả đường đi của các sợi thần kinh:
 
[[Giao thoa (giải phẫu)|Giao thoa]] (bắt nguồn từ chữ Hy Lạp "Chi") được dùng để mô tả sự bắt chéo cấu trúc của các dây (hay sợi) thần kinh ngoại biên giữa hai bán cầu đại não. Điển hình nhất có thể kể đến đó là [[Giao thoa thị giác|giao thị]].
 
[[Bắt chéo chữ thập]] (bắt nguồn từ chữ Latin 'deca', nghĩa là 10, và được viết dưới dạng chữ cái X in hoa), là nói đến các sợi thần kinh thuộc [[Hệ thần kinh trung ương|hệ thống thần kinh trung ương]] xuyên thẳng [[mặt phẳng dọc]] để qua phía đối diện, và kết nối ''nhiều vùng khác nhau'' của não bộ lại với nhau. Có hai loại:
 
* Loại 1 bắt chéo qua mặt phẳng dọc trong ''cùng'' một vùng não hoặc là đoạn tủy gai mà vị trí thân tế bào có sự hiện diện. Ví dụ như là các [[tế bào Mauthner]] ở [[cá]] và [[Động vật lưỡng cư|loài lưỡng cư]].
 
* Loại 2 bắt chéo qua mặt phẳng dọc nhưng ''khác'' vùng não. Điển hình là [[bắt chéo tháp]].
 
Loại đầu tiên thì xảy ra ở [[Động vật không xương sống|loài động vật không có xương sống]], trong khi đó loại thứ hai chủ yếu chỉ có ở [[động vật có xương sống]]. Loại thứ hai được cho là do nguyên nhân [[trục xoắn]].
 
[[Mép]] là cấu trúc kết nối các sợi trục của hai bán cầu đại não trái phải với nhau và trong cùng một khu vực. Chẳng hạn như các bó sợi thần kinh "bắc cầu" cho hai bán cầu đại não, chính là [[mép trước]], [[mép sau]], [[thể chai]], [[mép hải mã]] và [[mép cương]]. Tủy sống cũng có [[mép trắng trước]].
 
[[Hạch thần kinh|Hạch]] có thể cũng được coi là có sự bắt chéo vi mô trong thần kinh, nhưng chúng vẫn tồn tại các [[Xynap|synap]] và có [[thân tế bào]]. Trong khi đó những loại bắt chéo khác thì không bao giờ có sự hiện diện của synap cũng như là thân tế bào nơron.
 
Sự '''khác nhau''' cơ bản giữa ''giao thoa'' và ''bắt chéo'' đó chính là thuật ngữ ''giao thoa'' định hình bởi cấu trúc ngoại biên, còn ''bắt chéo'' thì diễn ra ngay trong hệ thần kinh trung ương. ''Mép'' nối kết các 'cứ điểm' khu vực tương đồng đối xứng, và sự ''bắt chéo'' liên kết những khu vực khác nhau của não bộ.
 
<gallery>
Hàng 87 ⟶ 82:
 
* ''[[Hồi liên kết]]'' là hồi nhỏ ẩn sâu dưới rãnh
 
* ''Đáy rãnh'' là vị trí tận cùng của rãnh
 
''Khe'' được mô tả là:
 
# Rãnh sâu được hình thành thông qua một quá trình với tên gọi là [[phân nắp hóa]], điển hình là [[rãnh sylvius]].
Hàng 99 ⟶ 93:
 
== Tham khảo ==
{{Reflisttham khảo}}
 
[[Thể loại:Thuật ngữ y khoa|Giải phẫu thần kinh]]