Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trương Huân (tướng đuôi sam)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 22:
Năm 1901, Trương được triều đình điều về Bắc Kinh, giữ chức Túc vệ Đoan Môn Ngự tiền hộ vệ, đảm nhiệm chức quan thị vệ cho [[Từ Hy Thái hậu]] và [[Quang Tự|Quang Tự đế]]. Năm 1909, hoàng đến [[Tuyên Thống]] đăng cơ, Trương được thăng lên làm Đề đốc Giang Nam, giữ nhiệm vụ cai quản tuần phòng khu vực từ [[Giang Tô]] đến [[Nam Kinh]].
 
Đầu năm 1910, [[Tân quân (nhà Thanh)|Tân quân]] ở [[Quảng Châu]] nổi dậy. Trương được triều đình giao nhiệm vụ trấn thủ Giang - Ninh (Giang Tô - Nam Kinh), chỉ huy Lục quân Đệ cửu trấn Tân quân (tương đương [[sư đoàn]]) đối kháng quân cách mạng. Triều đình cũng phong cho Trương làm Tuần phủ Giang Tô kiêm thự Lưỡng Giang Tổng đốc, Nam Dương Đại thần.
 
Đầu năm 1911, trước áp lực cách mạng, triều đình nhà Thanh bắt buộc canh tân, bãi bỏ việc bắt buộc phải cạo đầu thắt bím, tuyên bố "Thính quân dân tự tiện" (lắng nghe tiếng nói của dân và quân). Trương dâng biểu trung thành với triều đình, tuyên bố vẫn giữ bím tóc cùng với lực lượng [[Định Vũ quân]] bản bộ. Người đương thời gọi Trương là "Biện soái" và quân bản bộ của Trương là "Biện tử quân" ("biện" có nghĩa là bím tóc).