Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Jacek Krzynówek”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Infobox football biography | name = Jacek Krzynówek | image = Jacek Krzynowek.jpg | image_size = 180px | caption = Krzynówek trong màu áo Đội tuyển b…”
 
Dòng 29:
Năm 2002, anh góp công giúp 1. FC Nürnberg thăng hạng lên [[Bundesliga]], và được tôn vinh là tiền vệ hay nhất giải 2. Bundesliga. Cũng vào năm 2002, anh tới Hàn Quốc và Nhật Bản dự giải vô địch thế giới 2002 cùng Ba Lan. Bất chấp Ba Lan thể hiện bộ mặt nghèo nàn, lối chơi của anh vẫn được khen ngợi và có tổng cộng 3 trận ra sân.
 
Do bị dính chấn thương, anh bỏ lỡ hầu hết mùa 2002–03. Ở mùa thu 2003, anh chơi ở các trận đầu vòng loại quan trọng của [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004]] cho Ba Lan. Tuy nhiên Ba Lan bị loại còn [[1. FC Nürnberg]] không thể trụ hạng ở Bundesliga. Với màn thể hiện xuất sắc, anh được chuyển tới câu lạc bộ hàng đầu của Bundesliga là [[Bayer 04 Leverkusen|Bayer Leverkusen]]. Ở mùa 2004–05, anh là một trong những cầu thủ hyahay nhất của câu lạc bộ; bộ ba Krzynowek, [[Andriy Voronin]] và [[Dimitar Berbatov]] Đãđã gây được sự chú ý của nhiều câu lạc bộ hàng đầu châu Âu. Bayer Leverkusen cũng chơi cực hay tại Champions League, họ chỉ bị loại bởi những câu lạc bộ như [[Real Madrid C.F.|Real Madrid]] và [[A.S. Roma]]. Krzynowek ghi ba bàn thắng, một trong số đó là bàn thắng vào lưới Real Madrid, được tôn vinh là một trong những bàn thắng đẹp nhất giải đấu năm đó.
 
Ngày 2 tháng 2 năm 2009, Krzynówek chuyển đến câu lạc bộ [[Hannover 96]] và chơi bóng ở đây cho đến hè 2010. Ngày 15 tháng 8 năm 2011, Krzynówek chính thức tuyên bố treo giày sau 178 trận ra sân tại [[Bundesliga|giải vô địch quốc gia Đức]].<ref>{{Cite web | url = http://rsssf.com/players/krzynowekdata.html | title = Jacek Krzynówek - Matches and Goals in Bundesliga | first = Matthias | last = Arnhold | date = 7 June 2018 | access-date = 8 June 2018 | publisher = [[Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation|RSSSF]]}}</ref>