Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bộ các Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 35:
 
===Giai đoạn đầu===
Ngày 1/1/1959, sau khi lật đổ chế độ độc tài [[Fulgencio Batista]] do Tổng Tư lệnh [[Fidel Castro Ruz]] chỉ huy, người đứng đầu quân đội cách mạng; tại [[Santiago de Cuba]] chính quyền cách mạng được thành lập do [[Manuel Urrutia Lleó]] làm lãnhngười đạođứng đầu. Vào ngày 2/1, Urrutia đã ra quyết định công khai:
{{cquote|''"...ủng hộ Tổng Tư lệnh [[Fidel Castro]] Ruz]] làm lãnh đạo lực lượng lục quân, hải quân và không quân, theo [[Hiến pháp Cuba|Hiến pháp năm 1940]], tương ứng với lãnh đạo hàng đầu của quốc gia."''}}
 
Ngày hôm sau, Fidel ra quân lệnh đầu tiên. Một phần của nó thể hiện:
{{cquote|''"Xét rằng: Bởi tổng thống tạmlâm thời của Chính phủ Cách mạng Cộng hòa Cuba, tôi được trao các quyền phù hợp của Tổng Tư lệnh Lục quân, Hải quân và Không quân, tôi tiến hành tổ chức hợp nhất chung các lực lượng.
Trước đó: Khi sử dụng các quyền lực được trao, tôi đã xử lý: phê duyệt và thi hành, những điều sau đây:
Quân lệnh số 1: Tư lệnh [[Camilo Cienfuegos Gorriarán]] được chỉ định làm người lãnh đạolệnh tất cả các lực lượng Lục quân, Hải quân và Không quân nằm ở tỉnh [[Havana]]..."''}}
 
Nền tảng của Bộ các Lực lượng Vũ trang Cách mạng là Bộ Quốc phòng. Vào ngày 5/1, theo Nghị định số 22 của Tổng thống, Bộ trưởng [[Bộ Nội vụ Cuba|Bộ Nội vụ]] [[Luis Orlando Rodríguez]], được chỉ định là quyền Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, và vào ngày 20/1, Tổng thống Urrutia bổ nhiệm Thiếu lệnh [[Augusto Martínez Sánchez]] vào chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trong những ngày tiếp theo, các luật khác được quy định điều chỉnh các lực lượng vũ trang cho tớiphù nayhợp với tình hình hiện thời. Theo Nghị định số 377, được ban hành ngày 2/2, Tư lệnh [[Raúl Castro]] được bổ nhiệm làm [[Tổng Thamlệnh mưuthứ trưởng Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba|Tổng Tham mưu trưởng]]hai Lục quân, Hải quân và Không quân Cộng hòa Cuba.
 
Ngày 13/2/1959, khi Hội đồng Bộ trưởng của Chính phủ Cách mạng phê duyệt đề nghị Fidel đảm nhận chức vụ Thủ tướng, Nghị định số 564 của Tổng thống ban hành đã trao chức vụ Tổng Tư lệnh Lục quân, Hải quân và Không quân cho Raúl. Tuy nhiên trên thực tế Fidel vẫn là Tổng Tư lệnh cho đến năm 2008.
 
Các cơ quan chính phủ khác nhau đã được biến đổi bởi chính quyền cách mạng thay đổi để đạt được mục tiêu cách mạng: bằng Đạo luật số 100 của 23/2/1959, [[Bộ Quốc phòng Cuba|Bộ Quốc phòng]] gồm nhiệm7 vụtổng cục đó là: hỗ trợ kỹ thuật, vật chất và văn hóa cho người dân; Xây dựng nhà ở người dân; TrồngLâm nghiệp trồng rừng; Xây dựng và tổ chức trường học tại các thành phố; Xây dựng và tổ chức các hiệp hội và Hợp tác xã tiêu dùng, sản xuất nông nghiệp, thương mại và công nghiệp; Xây dựng bãi biển cho Thị trấn; và Hỗ trợ nạn nhân của chiến tranh và gia đình của họ. Các cấu trúc tương tự đã được phát triển ở các cơ quan nhà nước khác để đạt được mục tiêu cách mạng to lớn hơnmà Cách mạng đã đạt được trước đó.
 
Tuy nhiên, các hoạt động của Bộ Quốc phòng không đáp ứng nhu cầu quốc phòng vũ trang đất nước, dẫn đến việc ngừng hoạt động. Thay vào đó, việc thành lập Bộ Lực lượng Vũ trang Cách mạng, chịu trách nhiệm chuẩn bị phòng thủ quốc gia, đã được tổ chức. Khi đó, Tư lệnh [[Camilo Cienfuegos]] lãnh đạoTư lệnh Lục quân Cách mạng; Tư lệnh [[Juan Almeida Bosque]] chỉ huyTư lệnh Không quân Cách mạng; Trung tá [[Juan Manuel Castiñeiras]] chỉ huyTư lệnh Hải quân Cách mạng; và Tư lệnh Raúl Castro là chỉTổng huy củalệnh ba binh chủng này.
===Thành lập===
Việc thành lập Bộ các Lực lượng Vũ trang Cách mạng và sau đó bổ nhiệm Raul Castro Ruz đứng đầu, là một trong những quyết định quan trọng nhất được [[Chính phủ Cách mạng]] áp dụng vào năm 1959.