Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Juneau (CL-52)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 90:
=== Các hoạt động ban đầu ===
[[Tập tin:USS Juneau (CL-52) off New York City on 1 June 1942 (19-N-31264).jpg|nhỏ|303px|trái|USS ''Juneau'' vào [[tháng 6]] năm [[1942]]]]
Sau chuyến đi chạy thử máy vội vã dọc theo bờ biển [[Đại Tây Dương]] vào mùa Xuân năm [[1942]], ''Juneau'' thực hiện chuyến đi tuần tra phong tỏa vào đầu [[tháng năm|tháng 5]] ngoài khơi các quần đảo [[Martinique]] và [[Guadeloupe]] ngăn ngừa các đơn vị hải quân của phe [[Chính phủ Vichy|Vichy Pháp]] tẩu thoát. Nó quay trở về [[Thành phố New York|New York]] để hoàn tất các sửa đổi, rồi lầm nhiệm vụ tuần tra và hộ tống tại khu vực [[Bắc Đại Tây Dương]] và [[biển Caribe|biển Caribbe]] từ ngày [[1 tháng 6]] đến ngày [[12 tháng 8]]. Chiếc tàu tuần dương khởi hành đi sang [[Chiến tranh Thái Bình Dương|Mặt trận Thái Bình Dương]] vào ngày [[22 tháng 8]].<ref name=DANFS/>
 
Sau khi dừng lại một chặng ngắn tại [[Tonga]] và [[Nouvelle-Calédonie|New Caledonia]], vào ngày [[10 tháng 9]], ''Juneau'' gặp gỡ Lực lượng Đặc nhiệm 18 dưới quyền chỉ huy của [[Chuẩn Đô đốc]] [[Leigh Noyes]], đặt cờ hiệu của mình trên chiếc [[tàu sân bay]] [[USS Wasp (CV-7)|''Wasp'']]. Ngày hôm sau, Lực lượng Đặc nhiệm 17, bao gồm tàu sân bay [[USS Hornet (CV-8)|''Hornet'']], kết hợp với lực lượng của Đô đốc Noyes để hình thành nên Lực lượng Đặc nhiệm 61 với nhiệm vụ vận chuyển [[máy bay chiến đấu]] đến [[Guadalcanal]]. Ngày [[15 tháng 9]], ''Wasp'' trúng phải ba quả [[ngư lôi]] phóng từ [[tàu ngầm]] [[I-19 (tàu ngầm Nhật)|''I-19'']] của [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]], và khi các đám cháy lan rộng không thể kiểm soát được, nó bị [[tàu khu trục]] [[USS Lansdowne (DD-486)|''Lansdowne'']] đánh chìm lúc 21 giờ 00. ''Juneau'' và các tàu khu trục hộ tống đã cứu vớt 1.910 người sống sót của ''Wasp'' và đưa họ quay trở về [[Espiritu Santo]], [[Tân Hebrides|New Hebrides]] vào ngày [[16 tháng 9]]. Ngày hôm sau, chiếc tàu tuần dương gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 17. Hoạt động cùng với đội của ''Hornet'', nó đã hỗ trợ cho các hoạt động tiếp theo tại khu vực Guadalcanal: cuộc [[Không kích Buin-Fasi-Tonolai]], [[Trận chiến quần đảo Santa Cruz]] và trận [[Hải chiến Guadalcanal]].<ref name=DANFS/>
 
=== Trận chiến quần đảo Santa Cruz ===
''Juneau'' đã có mặt trong [[Trận chiến quần đảo Santa Cruz]] vào ngày [[26 tháng 10]]. Ngày [[24 tháng 10]], lực lượng đặc nhiệm của ''Hornet'' kết hợp với nhóm của [[USS Enterprise (CV-6)|''Enterprise'']] để tái lập Lực lượng Đặc nhiệm 61 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Thomas C. Kinkaid]]. Lực lượng này bố trí về phía Bắc [[quần đảo Santa Cruz]] nhằm ngăn chặn các đơn vị đối phương có ý định tiếp cận Guadalcanal. Cùng lúc đó, lực lượng Nhật tại Guadalcanal mở được một cửa đột phá dọc theo [[đồi Lunga]] trong đêm [[25 tháng 10]], rõ ràng là một dấu hiệu báo trước các đơn vị tàu nổi đối phương sẽ tiến đến hòn đảo.<ref name=DANFS/>
 
Sáng sớm ngày [[26 tháng 10]], máy bay từ tàu sân bay Mỹ phát hiện đối phương và lập tức tấn công, gây hư hại cho hai tàu sân bay, một [[thiết giáp hạm]] và ba tàu tuần dương. Nhưng cùng lúc đó, các tàu chiến Mỹ cũng chịu áp lực nặng; không lâu sau 10 giờ 00, khoảng 27 máy bay đối phương tấn công ''Hornet''. Cho dù ''Juneau'' và các tàu hộ tống khác dựng nên một hàng rào hỏa lực [[Chiến tranh phòng không|phòng không]] hiệu quả vốn đã bắn rơi 20 máy bay tấn công, ''Hornet'' bị hư hại nặng và bị đánh chìm ngày hôm sau. Sau giữa trưa, ''Juneau'' tách khỏi nhóm hộ tống của ''Hornet'' hướng đến ''Enterprise'' đang bị bao vây cách đó nhiều dặm. Bổ sung vào thành phần hỏa lực phòng không, ''Juneau'' trả giúp vào việc đánh trả bốn đợt không kích nhắm vào lực lượng này, và đã bắn rơi 18 máy bay Nhật.<ref name=DANFS/>
 
Chiều tối hôm đó, lực lượng Mỹ rút lui về hướng Đông Nam. Cho dù phải trả giá đắt, cuộc chiến này, kết hợp với thắng lợi của lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bộ tại Guadalcanal, đã đẩy lui ý định phản công của quân Nhật tại khu vực Solomon. Hơn nữa, việc hai tàu sân bay chủ lực của Hải quân Nhật bị hư hại đã làm hạn chế đáng kể khả năng hỗ trợ trên không của đối phương trong trận [[Hải chiến Guadalcanal]] diễn ra sau đó.<ref name=DANFS/>
 
=== Trận hải chiến Guadalcanal ===
[[Tập tin:USSJuneauMemorial.jpg|nhỏ|phải|300px|Bia lưu niệm USS ''Juneau'', được đặt tại bến tàu ở Juneau, Alaska]]
Ngày [[8 tháng 11]], ''Juneau'' rời [[Nouméa]], [[Nouvelle-Calédonie|New Caledonia]] như một đơn vị của Lực lượng Đặc nhiệm 67 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Richmond K. Turner]] hộ tống đoàn tàu vận tải tăng cường cho Guadalcanal. Họ đến nơi vào sáng sớm ngày [[12 tháng 11]], và ''Juneau'' chiếm lấy vị trí bảo vệ chung quanh các tàu vận chuyển và tàu chở hàng. Việc chất dỡ được tiến hành suôn sẽ cho đến 14 giờ 05 phút, khi 30 máy bay Nhật tấn công nhóm tàu chiến Mỹ. Hỏa lực phòng không rất có hiệu quả, chỉ riêng ''Juneau'' đã bắn rơi sáu [[máy bay ném ngư lôi]] đối phương; số ít máy bay Nhật còn lại bị [[máy bay tiêm kích]] Mỹ tấn công; chỉ có một chiếc [[máy bay ném bom]] chạy thoát. Cuối ngày hôm đó, Lực lượng Tấn công Mỹ bao gồm các tàu tuần dương và tàu khu trục rời khu vực Guadalcanal sau khi có báo cáo về một lực lượng lớn tàu nổi đối phương đang hướng đến hòn đảo. Đến 01 giờ 48 phút ngày [[13 tháng 11]], Lực lượng Hỗ trợ Đổ bộ tương đối yếu của Chuẩn đô đốc [[Daniel J. Callaghan]] đụng độ với lực lượng đối phương, bao gồm hai [[thiết giáp hạm]], một [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] và chín [[tàu khu trục]].<ref name=DANFS/>
 
Do thời tiết xấu và việc thông tin liên lạc lộn xộn, trận chiến diễn ra trong hoàn cảnh tối đen và hầu như trong tầm bắn trực tiếp khi tàu chiến của cả hai phía xen lẫn vào nhau. Trong trận đánh, ''Juneau'' trúng một quả ngư lôi bên mạn trái làm nó nghiêng nặng và chết đứng giữa biển, buộc phải rút lui. Trước giữa trưa ngày [[13 tháng 11]], ''Juneau'' cùng với hai tàu tuần dương khác bị hư hại trong trận chiến [[USS Helena (CL-50)|''Helena'']] và [[USS San Francisco (CA-38)|''San Francisco'']] rời khu vực Guadalcanal quay trở về [[Espiritu Santo]] để sửa chữa. ''Juneau'' di chuyển chỉ với một chân vịt, giữ khoảng cách {{convert|730|m|yd|abbr=on}} phía sau bên mạn phải chiếc ''San Francisco'' bị hư hỏng nặng. Nó bị ngập {{convert|4|m|ft|abbr=on}} phía mũi, nhưng vẫn có thể duy trì tốc độ {{convert|13|kn|abbr=on}}. Vài phút sau 11 giờ 00, hai quả ngư lôi được phóng ra từ tàu ngầm Nhật [[I-26 (tàu ngầm Nhật)|''I-26'']], dự định nhắm vào "San Francisco", nhưng đã băng qua phía trước chiếc tàu tuần dương hạng nặng. Một quả bị trượt, quả kia đánh trúng vào ''Juneau'' ngay chỗ nó từng bị đánh trúng trong trận chiến đêm. Một vụ nổ dữ dội xảy ra; ''Juneau''gãy làm đôi và biến mất chỉ trong vòng 20 giây. Lo sợ những đợt tấn công khác từ ''I-26'', ''Helena'' và ''San Francisco'' tiếp tục hành trình mà không tìm cách cứu vớt những người sống sót. Mặc dù con tàu bị chìm với tổn thất nhân mạng rất lớn, có hơn 100 thủy thủ vẫn sống sót sau khi tàu chìm. Họ bị bỏ lại tự chống chọi giữa biển khơi trong tám ngày cho đến khi máy bay cứu nạn đến nơi. Trong khi chờ đợi được giải cứu, tất cả chỉ trừ 10 người đã thiệt mạng vì nhiều lý do kể cả do bị cá mập tấn công, trong đó có năm [[anh em Sullivan]].<ref name=DANFS/><ref>Kurzman, 1994</ref>
 
Một thành viên trong thủy thủ đoàn của ''Juneau'' còn sống sót, Orrell Cecil, sinh sống tại [[Poway, California]], đã tham dự lễ xuất biên chế của [[tàu vận chuyển đổ bộ]] [[USS Juneau (LPD-10)|USS ''Juneau'' (LPD-10)]] tại San Diego vào ngày [[30 tháng 10]] năm [[2008]], như một khách mời chính thức của Hải quân Hoa Kỳ.<ref>Liewer, Steve, "Juneau's Pennant Lowers For Last Time", ''[[San Diego Union-Tribune]]'', ngày 21 tháng 10 năm 2008.</ref>