Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS San Diego (CL-53)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Infobox update
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
{{Dablink|Về những tàu chiến Hoa Kỳ khác mang cùng tên, xin xem [[USS San Diego]].}}
 
Hàng 5 ⟶ 4:
{{Infobox ship image
|Ship image= [[Tập tin:USS San Diego (CL-53) underway on 8 March 1944 (NH 97825).jpg|300px|USS San Diego underway in 1944]]
|Ship caption= Tàu tuần dương hạng nhẹ USS ''San Diego'' trên đường đi, ngày 3 tháng 8 năm 1944
}}
{{Infobox ship career
Hàng 30 ⟶ 29:
|Ship struck= [[1 tháng 3]] năm [[1959]]
|Ship nickname=
|Ship honors= 18 × [[Ngôi sao Chiến đấutrận]]
|Ship captured=
|Ship fate= Bị bán để tháo dỡ, [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1960]]
Hàng 36 ⟶ 35:
}}
{{Infobox ship characteristics
|Hide header =
|Header caption =
|Ship class= [[Atlanta (lớp tàu tuần dương)|Lớp tàu tuần dương ''Atlanta'']]
|Ship type= [[Tàu tuần dương hạng nhẹ]]
|Ship displacement= {{convert|6000|LT|t|0|lk=on|abbr=on}} (tiêu chuẩn)<br/> {{convert|8200|LT|t|0|abbr=on}} (đầy tải)
|Ship lengthdisplacement=* {{convert|5416718|ftLT|0|in|abbr=onMT }} (tiêu chuẩn);
* {{convert|7400|LT|MT }} (đầy tải)
|Ship length= *{{convert|530|ft|abbr=on}} (mực nước);
* {{convert|541|ft|m|abbr=on}} (chung)
|Ship beam= {{convert|52|ft|10|in|abbr=on}}
|Ship draft= {{convert|20|ft|6|in|abbr=on}}
|Ship propulsionpower=* 2 × turbine hơi nước hộp số <br/> 48 × nồi hơi ống nước, áp lực 665 psi <br/> 2 × trục <br/> công suất {{convert|75000|hp|kW|abbr=on|lk=on}};
|Ship* speed=công suất {{convert|3275000|knshp|km/hlk=in|abbr=on|0}}
|Ship propulsion=* 2 × [[turbine hơi nước]] hộp số;
* 2 × trục
|Ship speed=* {{convert|32,5|kn|km/h|0}}(thiết kế);
* {{convert|33,6|kn|km/h|0}} (thử máy)
|Ship range= {{convert|8500|nmi|km}} ở tốc độ {{convert|15|kn|km/h|0}}
|Ship endurance=
|Ship boats=
|Ship complement=* 79635 sĩ quan,
* 638 thủy thủ
|Ship crew=
|Ship sensors=
|Ship EW=
|Ship armament=* 16 × pháo [[Hải pháo 5 inch/38 caliber|{{convert|5|in|mm|abbr=on}}/38 caliber]] (8×2)<br/>;
* 16 × pháo [[pháo 1,1 inch/75 caliber|{{convert|1,1|in|mm|abbr=on}}/75 caliber]] (4×4)<br />;
(thay* bằng6 × pháo phòng không [[BoforsOerlikon 4020 mm]]/5670 caliber vào cuối năm 1943) <br/>;
* 8 × [[ống phóng [[ngư lôi]] [[Ngư lôi Mark 15|{{convert|21|in| inch (533 mm|abbr=on}})]] (2×4)
|Ship armor=* [[đai giáp chính]]: {{convert|1,1|-|3,575|in|mm|abbr=on}};<br/>
* sàn tàu: {{convert|1,25|in|mm|abbr=on}};<br/>
* [[tháp pháo]]: {{convert|1,25|in|mm|abbr=on}};
* tháp chỉ huy: {{convert|2,5|in|mm|abbr=on}}
|Ship aircraft=
|Ship aircraft facilities=
Hàng 61 ⟶ 73:
|}
 
'''USS ''San Diego'' (CL-53)''' là một [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] của [[Hải quân Hoa Kỳ]] thuộc [[Atlanta (lớp tàu tuần dương)|lớp ''Atlanta'']]. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt [[USS San Diego|cái tên này]], theo tên thành phố [[San Diego]] tại tiểu bang [[California]]. Được đưa ra phục vụ ngay sau khi Hoa Kỳ tham gia [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]], đã hoạt động tại [[Mặt trận Thái Bình dươngDương]]., ''San Diego''trở thành một trong những tàu chiến được tưởng thưởng nhiều nhất trong Thế Chiến II, khi được trao tặng 18 [[Ngôi sao Chiến đấutrận]],. Nó cũng là tàu chiến chủ lực đầu tiên của phe [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] tiến vào [[vịnh Tokyo]] sau khi [[Nhật Bản đầu hàng]]. Được cho ngừngxuất hoạtbiên độngchế vào năm [[1946]], con tàu bị bán để tháo dỡ vào [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1960]].
 
== Thiết kế và chế tạo ==
{{bài chính|Atlanta (lớp tàu tuần dương)}}
=== Thiết kế ===
Trên những chiếc lớp ''Atlanta'', toàn bộ dàn pháo chính {{convert|5|in|mm|0|abbr=on}} đều là những khẩu [[pháo đa dụng]] (DP: dual-purpose), có thể sử dụng chống lại cả mục tiêu trên không lẫn trên mặt, bắn được đầu đạn pháo công phá, đạn xuyên thép và đạn kíp nổ tiếp cận chống máy bay. Ngoài ra, lớp ''Atlanta'' cũng là lớp tàu tuần dương Mỹ duy nhất trong Thế chiến II được trang bị ống phóng [[ngư lôi]].{{sfn|Friedman|1984|pp=231—233}}
 
Những chiếc trong lớp ''Atlanta'' có vỏ giáp yếu, khiến chúng trở thành những hạm tàu nổi chiến đấu kém so với tàu tuần dương hạng nhẹ tiêu biểu. Ở góc độ vũ khí, lớp ''Atlanta'' gần giống một tàu khu trục, khi được trang bị cỡ pháo {{convert|5|in|mm|abbr=on}} thay vì {{convert|6|in|mm|0|abbr=on}} trên một tàu tuần dương hạng nhẹ; nhưng với chiều dài trên {{convert|500|ft|m|abbr=on}} kết hợp với dàn pháo chính đến 16 khẩu {{convert|5|in|mm|0|abbr=on}} (giảm xuống còn 12 đối với những chiếc trễ hơn trong lớp), chúng được xem là những tàu tuần dương hạng nhẹ, trong khi [[tàu khu trục]] tiêu biểu vào thời đó chỉ mang năm hoặc sáu khẩu pháo {{convert|5|in|mm|abbr=on}}. Mặc dù có vỏ giáp yếu hơn so với tàu tuần dương hạng nhẹ, chúng vẫn có vỏ giáp dày hơn so với tàu khu trục, vốn được cho là được bảo vệ kém.{{sfn|Friedman|1984|pp=236, 238—239}}
 
Lớp ''Atlanta'' được trang bị tám tháp pháo {{convert|5|in|mm|abbr=on}} nòng đôi, bố trí trên một cấu hình độc đáo; gồm ba tháp pháo phía trước và ba tháp pháo phía sau ngay trên trục dọc và với chiều cao tăng dần theo kiểu [[bắn thượng tầng]], cung cấp một dáng vẽ đối xứng với một khoảng trống trong cấu trúc thượng tầng; ngoài ra, phía sau còn có một tháp pháo mỗi bên mạn, lên tổng cộng 16 tháp pháo 5 inch. Góc bắn của các khẩu đội phía trước và phía sau giao nhau với một góc rất giới hạn, cho phép nó có một góc bắn 60° cho mọi tháp pháo bắn qua mạn, ngoài trừ các tháp pháo mạn. Vì chúng chỉ có thể xoay các khẩu pháo trong phạm vi góc bắn hẹp đó, khả năng đối đầu với các mục tiêu hạm nổi bị giới hạn. Dù sao, các góc bắn phù hợp lý tưởng để đối đầu máy bay, với tối thiểu sáu khẩu pháo sẵn sàng ở mọi góc độ.{{sfn|Friedman|1984|pp=231—233}}
 
=== Chế tạo ===
[[Tập tin:Launching of USS San Diego (CL-53) at the Fore River Shipyard on 26 July 1941 (19-N-2998).jpg|nhỏ|trái|Lễ hạ thủy USS ''San Diego'', ngày [[26 tháng 7]] năm [[1941]]]]
Được trang bị 16 khẩu pháo [[Hải pháo 5 inch/38 caliber|{{convert|5|in|mm|0|abbr=on}}/38 cal]] [[pháo đa dụng|phòng không đa dụng]] (DP: dual-purpose) cùng 16 khẩu [[Bofors 40 mm]], lớp ''Atlanta'' là những tàu tuần dương có hỏa lực phòng không bắn qua mạn mạnh mẽ nhất trong Thế Chiến II. ''San Diego'' được đặt lườn vào ngày [[27 tháng 3]] năm [[1940]] bởi hãng [[Bethlehem Steel]] ở [[Quincy, Massachusetts]],. Nó được hạ thủy vào ngày [[26 tháng 7]] năm [[1941]], được đỡ đầu bởi [[Grace Legler Benbough]], phu nhân ngài [[Percy J. Benbough]], thị trưởng thành phố [[San Diego]] vào lúc đó, và được đưacho ranhập hoạtbiên độngchế cùng hải quân vào ngày [[10 tháng 1]] năm [[1942]] dưới quyền chỉ huy của Thuyềnhạm trưởng, [[Đại tá Hải quân]] Benjamin F. Perry.<ref name=DANFS>{{cite DANFS | title=San Diego III (CL-53) | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/s/san-diego-ii.html | author=[[Naval Historical Center]] | accessdate=17 May 2021}}</ref><ref name=NavSource/>
 
== Lịch sử hoạt động ==
=== 1942-1943 ===
Sau chuyến chạy thử máy huấn luyện tại [[vịnh Chesapeake]], ''San Diego'' di chuyển ngang qua [[kênh đào Panama]] để chuyển sang khu vực bờ Tây, và đi đến [[san Diego|thành phố nó mang tên]] vào ngày [[16 tháng 5]] năm [[1942]]. Hộ tống cho chiếc [[tàu sân bay]] ''[[USS Saratoga (CV-3)|Saratoga]]'' với vận tốc nhanh nhất có thể, ''San Diego'' vẫn bị lỡ mất [[Trận Midway]]. Từ ngày [[15 tháng 6]], nó bắt đầu hộ tống cho tàu sân bay ''[[USS Hornet (CV-8)|Hornet]]'' trong các chiến dịch tại khu vực Nam Thái Bình Dương. Vào đầu [[tháng tám|tháng 8]], nó hỗ trợ cho cuộc tấn công chủ động đầu tiên của lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương trong cuộc chiến, cuộc chiếm đóng [[Guadalcanal]] thuộc [[quần đảo Solomon]]. Với những lực lượng không hải lực còn mạnh mẽ, Nhật Bản đối đầu một cách ác liệt đòn tấn công của Hoa Kỳ, gây ra những thiệt hại đáng kể; ''San Diego'' chứng kiến việc đánh chìm chiếc tàu sân bay ''[[USS Wasp (CV-7)|Wasp]]'' vào ngày [[15 tháng 9]], rồi đến lượt ''Hornet'' vào ngày [[26 tháng 10]].<ref name=DANFS/>
 
''San Diego'' đã bảo vệ phòng không cho tàu sân bay ''[[USS Enterprise (CV-6)|Enterprise]]'' như một phần của [[Hải chiến Guadalcanal]] kéo dài ba ngày mang tính quyết định từ ngày [[12 tháng 11|12]] đến ngày [[15 tháng 11]] năm [[1942]]. Sau nhiều tháng phục vụ tại vùng biển tuyến đầu nguy hiểm chung quanh [[quần đảo Slolomon]], ''San Diego'' lên đường đi ngang qua [[Espiritu Santo]], [[Tân Hebrides|New Hebrides]] để đi đến [[Auckland]] [[New Zealand]], nơi nó được bổ sung tiếp liệu.<ref name=DANFS/>
 
Tại [[Noumea]], [[Nouvelle-Calédonie]], chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ gia nhập cùng ''Saratoga'', tàu sân bay Hoa Kỳ duy nhất còn hoạt động tại khu vực Năm Thái Bình Dương, cùng chiếc [[HMS Victorious (R38)|HMS ''Victorious'']] của [[Hải quân Hoàng gia Anh]] để hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng [[Munda (quần đảo Solomon)|Munda]], [[New Georgia]] và [[Bougainville]]. Trong các ngày [[5 tháng 11|5]] và [[11 tháng 11]] năm [[1943]], nó tham gia cùng ''Saratoga'' [[tàu sân bay hạng nhẹ]] ''[[USS Princeton (CVL-23)|Princeton]]'' trong cuộc [[Ném bom Rabaul (tháng 11 năm 1943)|ném bom]] [[Rabaul]] rất thành công. ''San Diego'' đã tham gia [[Chiến dịch Galvanic]], cuộc đổ bộ chiếm đóng [[đảo san hô Tarawa|Tarawa]] thuộc [[quần đảo Gilbert]]. Sau đó, nó hộ tống cho tàu sân bay ''[[USS Lexington (CV-16)|Lexington]]'', vốn bị hư hại bởi [[ngư lôi]], quay về [[Trân Châu Cảng]] để sửa chữa vào ngày [[9 tháng 12]]. ''San Diego'' tiếp tục đi đến [[San Francisco]] để được bổ sung thiết bị [[ra đa|radar]] tiên tiến, một [[trung tâm thông tin hành quân]] và các khẩu đội phòng không 40&nbsp;mm thay thế cho các khẩu đội 1,1 inch (27&nbsp;mm) đã lạc hậu.<ref name=DANFS/>
 
===1944===
Nó gia nhập [[Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay nhanh]] dưới quyền [[Phó Đô đốc]] [[Marc Mitscher]] tại Trân Châu Cảng vào [[tháng một|tháng 1]] năm [[1944]], và đã đóng một vai trò quan trọng trong lực lượng hùng hậu này trong suốt thời gian còn lại của chiến tranh. ''San Diego'' đã tham gia [[Chiến dịch Flintlock]], cuộc chiếm đóng [[Majuro]] và [[Kwajalein]], cùng chiến dịch Catchpole, cuộc [[trận Eniwetok|đổ bộ]] lên [[Eniwetok]] thuộc [[quần đảo Marshall]] từ ngày [[31 tháng 1]] đến ngày [[4 tháng 3]]. Trong giai đoạn này, Lực lượng Đặc nhiệm 58 tung ra một cuộc tấn công hủy diệt nhắm vào [[Truk]], căn cứ hải quân chủ lực của Nhật Bản vốn thường được ví như "Gibraltar của Thái Bình Dương".<ref name=DANFS/>
 
''San Diego'' quay trở lại San Francisco để được tăng cường thêm cho hệ thống radar của nó, rồi lại gia nhập lực lượng tàu sân bay tại [[Majuro]] kịp lúc để tham gia cuộc không kích [[đảo Wake|Wake]] và [[quần đảo Marcus]] vào [[tháng sáu|tháng 6]]. Nó nằm trong thành phần hộ tống cho lực lượng tàu sân bay trong cuộc chiếm đóng [[Saipan]], tham gia cuộc tấn công [[quần đảo Ogasawara|quần đảo Bonin]], và chia sẻ chiến thắng trong [[Trận chiến biển Philippines|Trận chiến biển Philippine]] ngày [[19 tháng 6|19]]-[[20 tháng 6]]. Sau một chặng dừng ngắn để tiếp liệu tại Eniwetok, ''San Diego'' và các tàu sân bay trong nhóm hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên [[Guam]] và [[Tinian]], đánh phá Palau, và tiến hành cuộc không kích bằng tàu sân bay đầu tiên xuống [[Philippines]]. Trong các ngày [[6 tháng 8|6]] và [[8 tháng 8]], nó trực chiến phòng không trong khi các tàu sân bay hỗ trợ gần mặt đất cho việc đổ bộ lực lượng [[Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến]] lên [[Peleliu]], [[quần đảo Palau]].<ref name=DANFS/>
 
Ngày [[21 tháng 9]], lực lượng đặc nhiệm tấn công khu vực [[vịnh Manila]]. Sau khi được tiếp liệu tại Saipan và [[Ulithi]], nó lên đường cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 38 trong cuộc không kích đầu tiên xuống [[Okinawa]]. Từ ngày [[12 tháng 10|12]] đến ngày [[15 tháng 10]], các tàu sân bay tấn công các sân bay trên đảo [[Đài Loan]] trong khi hỏa lực phòng không của ''San Diego'' bắn rơi hai trong số chín máy bay đối phương tấn công tại khu vực nó đảm trách, và đánh đuổi số còn lại; tuy nhiên, một ít đã lọt qua được và gây hư hại cho ''[[USS Houston (CL-81)|Houston]]'' và ''[[USS Canberra (CA-70)|Canberra]]''. ''San Diego'' đã giúp hộ tống hai chiếc tàu tuần dương bị hư hại ra khỏi vùng nguy hiểm quay trở về Ulithi. Sau khi gia nhập trở lại lực lượng tàu sân bay nhanh, nó né tránh được một cơn [[bão]] vào các ngày [[17 tháng 12|17]]-[[18 tháng 12]], cho dù con tàu bị sóng đánh chòng chành nặng.<ref name=DANFS/>
 
=== 1945 ===
Vào [[tháng một|tháng 1]] năm [[1945]], Lực lượng Đặc nhiệm 38 tiến vào [[Biển Đông]] cho các đợt không kích xuống Đài Loan, [[Luzon]], [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]] và miền Nam [[Trung Quốc]]; lực lượng cũng đã tấn công Okinawa trước khi quay trở về Ulithi để tiếp liệu. Sau đó ''San Diego'' tham gia vào chiến dịch của các tàu sân bay không kích xuống các hòn đảo nhà [[Nhật Bản]], cuộc không kích đầu tiên xuống chính quốc kể từ cuộc [[Không kích Doolittle]] vào năm [[1942]]. Lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh kết thúc [[tháng hai|tháng 2]] bằng đợt không kích xuống [[Đảo Iō|Iwo Jima]].<ref name=DANFS/>
 
Ngày [[1 tháng 3]], ''San Diego'' cùng các tàu tuần dương khác được cho tách khỏi lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay để bắn phá [[đảo Okino Daijo]] nhằm hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên [[Okinawa]]. Sau một lượt ghé lại Ulithi, nó gia nhập cùng các tàu sân bay cho một đợt không kích [[Kyushu|Kyūshū]], bắn rơi hay đánh đuổi máy bay đối phương liều lĩnh tấn công các tàu sân bay. Trong đêm [[27 tháng 3|27]]-[[28 tháng 3]], ''San Diego'' tham gia cuộc bắn phá [[Minami Daito Jima]]; vào ngày [[11 tháng 4]] và một lần nữa vào ngày [[16 tháng 4]], các khẩu pháo của nó bắn rơi hai máy bay đối phương. Nó giúp bảo vệ bằng hỏa lực phòng không cho các con tàu bị hư hại bởi các cuộc tấn công tự sát [[thần phong|kamikaze]], hộ tống chúng đi đến vùng an toàn. Sau một chặng dừng tại Ulithi, nó tiếp tục nằm trong thành phần lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Okinawa, cho đến khi đi vào [[ụ tàu]] tại [[Guiuan, Đông Samar|Guiuan]], [[samar (đảo)|đảo Samar]], Philippines để sửa chữa và bảo trì.<ref name=DANFS/>
[[Tập tin:USS San Diego (CL-53) arrives at Yokosuka, 30 August 1945.jpg|nhỏ|phải|''San Diego'' đi đến [[Căn cứ Hải quân Yokosuka]], [[30 tháng 8]] năm [[1945]]]]
''San Diego'' phục vụ một lần nữa cùng với lực lượng tàu sân bay nhanh ngoài khơi bờ biển Nhật Bản từ ngày [[10 tháng 7]] cho đến khi chấm dứt xung đột. Vào ngày [[27 tháng 8]], nó là chiếc tàu chiến chủ lực Đồng Minh đầu tiên tiến vào [[vịnh Tokyo]] kể từ khi chiến tranh bắt đầu, và đã giúp vào việc chiếm đóng [[Căn cứ Hải quân Yokosuka]] và tiếp nhận sự đầu hàng của ''[[Nagato (thiết giáp hạm Nhật)|Nagato]]'', chiếc thiết giáp hạm cuối cùng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Sau khi di chuyển trên {{convert|300000|mi|km|abbr=on}} suốt Thái Bình Dương, nó quay trở về San Francisco vào ngày [[14 tháng 9]] năm [[1945]]. ''San Diego'' còn tiếp tục phục vụ trong [[Chiến dịch Magic Carpet (Thế Chiến II)|Chiến dịch Magic Carpet]] để hồi hương binh lính Hoa Kỳ ở nước ngoài.<ref name=DANFS/>
 
=== Số phận ===
''San Diego'' được cho ngừng hoạt động và đưa về [[Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương]] vào ngày [[4 tháng 11]] năm [[1946]], neo đậu tại [[Bremerton, Washington]]. Nó được xếp lại lớp với ký hiệu '''CLAA-53''' vào ngày [[18 tháng 3]] năm [[1949]]. Mười năm sau, tên của nó được rút khỏi danh sách [[Đăng bạ Hải quân]] vào ngày [[1 tháng 3]] năm [[1959]], và nó được bán cho hãng Todd Shipyards, tại [[Seattle|Seattle, Washington]] vào [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1960]] để tháo dỡ.<ref name=NavSource/><ref name=DANFS/>
 
== Phần thưởng ==
''San Diego'' là một trong những tàu chiến Hoa Kỳ được tặng thưởng nhiều nhất trong Thế Chiến II, với tổng cộng 18 [[Ngôi sao Chiến trận]].<ref name=DANFS/><ref name=NavSource>{{chú thích web | last=Yarnall | first=Paul | url=https://www.navsource.org/archives/04/053/04053.htm | title=USS San Diego (CL 53) | website=NavSource.org | date=12 April 2020 | accessdate=20 March 2021}}</ref>
<center>
{|
Hàng 121 ⟶ 142:
 
== Tham khảo ==
=== Chú thích ===
{{tham khảo}}
=== Thư mục ===
* Bài này có các trích dẫn từ nguồn [[:en:Dictionary of American Naval Fighting Ships]] thuộc [[phạm vi công cộng]]: http://www.history.navy.mil/danfs/s4/san_diego-ii.htm
* {{chú thích sách| last=Friedman | first=Norman | title=U.S. Cruisers: an illustrated design history | publisher=Naval Institute Press | location=Annapolis, MD | year=1984 | isbn=0870217186 | oclc=10949320 | ref=Harv}}
* {{cite DANFS | title=San Diego III (CL-53) | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/s/san-diego-ii.html | author=[[Naval Historical Center]] | accessdate=17 May 2021}}
 
== Liên kết ngoài ==