Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Oakland (CL-95)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã cứu 1 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8
Infobox update
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
{{Dablink|Về những tàu chiến Hoa Kỳ khác mang cùng tên, xin xem [[USS Oakland]].}}
 
Hàng 36 ⟶ 35:
}}
{{Infobox ship characteristics
|Hide header =
|Ship class= [[Atlanta (lớp tàu tuần dương)|Lớp tàu tuần dương ''Atlanta'']]
|Header caption =
|Ship displacement= {{convert|6000|LT|MT }} (tiêu chuẩn)<br/> {{convert|7400|LT|MT }} (đầy tải)
|Ship class= phân lớp ''Oakland'' của [[Atlanta (lớp tàu tuần dương)|Lớp tàu tuần dươnglớp ''Atlanta'']]
|Ship length= {{convert|541|ft|0|in|abbr=on}}
|Ship type= [[Tàu tuần dương hạng nhẹ]]
|Ship beam= {{convert|53|ft|2|in|abbr=on}}
|Ship draftdisplacement=* {{convert|266718|ftLT|6|in|abbr=onMT }} (tiêu chuẩn);
* {{convert|7400|LT|MT }} (đầy tải)
|Ship propulsion= 2 × turbine hơi nước hộp số <br/> 4 × nồi hơi ống nước, áp lực 665 psi <br/> 2 × trục <br/> công suất {{convert|75000|hp|kW|abbr=on|lk=on}}
|Ship speedlength= *{{convert|32,5530|knft|km/h|0}}(thiết kế), <br/> {{convert|33,6|kn|km/h|0abbr=on}} (thửmực máynước);
* {{convert|541|ft|m|abbr=on}} (chung)
|Ship beam= {{convert|5352|ft|210|in|abbr=on}}
|Ship lengthdraft= {{convert|54120|ft|06|in|abbr=on}}
|Ship power=* 8 × nồi hơi , áp lực 665 psi;
* công suất {{convert|75000|shp|lk=in|abbr=on|0}}
|Ship propulsion=* 2 × [[turbine hơi nước]] hộp số;
* 2 × trục
|Ship speed=* {{convert|32,5|kn|km/h|0}}(thiết kế);
* {{convert|33,6|kn|km/h|0}} (thử máy)
|Ship range= {{convert|8500|nmi|km}} ở tốc độ {{convert|15|kn|km/h|0}}
|Ship endurance=
|Ship boats=
|Ship complement= * 47 sĩ quan,
* 766 thủy thủ
|Ship crew=
|Ship sensors=
|Ship EW=
|Ship armament= * 12 × pháo [[Hải pháo 5 inch/38 caliber|{{convert|5|in|mm|abbr=on}}/38 caliber]] (6×2)<br/>;
* 8 × pháo phòng không [[Bofors 40 mm]]/56 caliber <br />;
* 16 × pháo phòng không [[Oerlikon 20 mm]]/70 caliber <br/>;
* 8 × [[ống phóng [[ngư lôi]] [[Ngư lôi Mark 15|{{convert|21|in| inch (533 mm|abbr=on}})]] (2×4)
|Ship armor=* [[đai giáp chính]]: {{convert|1,1|-|3,575|in|mm|abbr=on}};<br/>
* sàn tàu: {{convert|1,25|in|mm|abbr=on}};<br/>
* [[tháp pháo]]: {{convert|1,25|in|mm|abbr=on}};
* tháp chỉ huy: {{convert|2,5|in|mm|abbr=on}}
|Ship aircraft=
|Ship aircraft facilities=
Hàng 61 ⟶ 73:
|}
 
'''USS ''Oakland'' (CL-95)''' là một [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] phòng không của [[Hải quân Hoa Kỳ]] thuộc [[Atlanta (lớp tàu tuần dương)|lớp ''Atlanta'']] từng phục vụ trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]]. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt [[USS Oakland|cái tên này]], theo tên thành phố [[Oakland, California|Oakland]] thuộc tiểu bang [[California]]. Được cho ngừngxuất hoạtbiên độngchế vào năm [[1949]], con tàu bị bán để tháo dỡ vào [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1959]]. ''Oakland'' chỉđược chịutặng đựngthưởng bachín thương[[Ngôi vongsao Chiến trận]] do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
 
== Thiết kế và chế tạo ==
{{bài chính|Atlanta (lớp tàu tuần dương)}}
''Oakland'' là chiếc đầu tiên của một nhóm thuộc lớp tàu tuần dương hạng nhẹ ''Atlanta'' được cải tiến, đôi khi còn được gọi là "lớp ''Oakland''". Giống như ''Atlanta'', chúng được thiết kế như những tàu tuần dương [[chiến tranh phòng không|phòng không]], với dàn pháo chính gồm những khẩu [[Hải pháo 5 inch/38 caliber|{{convert|5|in|mm|0|abbr=on}}/38 cal]] [[pháo đa dụng|phòng không đa dụng]] (DP: dual-purpose). Khác biệt chính là chúng loại bỏ các khẩu đội pháo 5 inch bên mạn để tăng cường súng phòng không hạng trung và hạng nhẹ.
=== Thiết kế ===
''Oakland'' là chiếc đầu tiên của một nhómlớp phụ thuộc lớp tàu tuần dương hạng nhẹ ''Atlanta'' được cải tiến, đôi khi còn được gọi là "lớp ''Oakland''". Giống như ''Atlanta'', chúng được thiết kế như những tàu tuần dương [[chiến tranh phòng không|phòng không]], với dàn pháo chính gồm những khẩu [[Hải pháo 5 inch/38 caliber|{{convert|5|in|mm|0|abbr=on}}/38 cal]] [[pháo đa dụng|phòng không đa dụng]] (DP: dual-purpose). Khác biệt chính giữa ''Oakland'' với ''Atlanta'' là chúng loại bỏ các khẩu đội pháo 5 inch bên mạn để tăng cường súng phòng không hạng trung [[Bofors 40 mm]] và hạng nhẹ [[Oerlikon 20 mm]].{{sfn|Friedman|1984|pp=231—233}}
 
=== Chế tạo ===
''Oakland'' được đặt lườn vào ngày [[15 tháng 7]] năm [[1941]] bởi hãng [[Bethlehem Steel]] ở [[San Francisco|San Francisco, California]],. Con tàu được hạ thủy vào ngày [[23 tháng 10]] năm [[1942]], được đỡ đầu bởi Tiến sĩ [[Aurelia H. Reinhardt]], và được đưacho ranhập hoạtbiên độngchế cùng hải quân vào ngày [[17 tháng 7]] năm [[1943]] dưới quyền chỉ huy của Thuyềnhạm trưởng, [[Đại tá Hải quân]] William K. Phillips.<ref Tênname=DANFS>{{cite củaDANFS | đượctitle=Oakland đặtII theo(CL-95) thành| phốurl=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/o/oakland-ii.html | author=[[Oakland,Naval CaliforniaHistorical Center]]. | accessdate=17 May 2021}}</ref><ref name=NavSource/>
 
== Lịch sử hoạt động ==
=== 1943 ===
Sau một chuyến đi thử máy và huấn luyện ngoài khơi [[San Diego]] vào mùa Hè năm [[1943]], ''Oakland'' lên đường đi [[Trân Châu Cảng]], đến nơi vào ngày [[3 tháng 11]] năm [[1943]]. Tham gia cùng ba [[tàu tuần dương hạng nặng]] và hai [[tàu khu trục]], nó gia nhập Đội đặc nhiệm 50.3 gần Funafuti thuộc [[tuvalu|quần đảo Ellice]] để hỗ trợ cho [[Chiến dịch Galvanic]], cuộc đổ bộ lên [[quần đảo Gilbert]]. Các tàu sân bay tung ra cuộc không kích đầu tiên vào ngày [[19 tháng 11]], và phía Nhật Bản đáp trả bằng một đợt tấn công với [[máy bay ném ngư lôi]] vào xế trưa ngày [[20 tháng 11]]. ''Oakland'' ghi được chiến công bắn rơi hai máy bay và trợ giúp vào việc bắn rơi hai chiếc khác.<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[26 tháng 11]], về phía Đông Bắc [[quần đảo Marshall]], ''Oakland'' một lần nữa đánh trả các đợt tấn công bằng máy bay ném ngư lôi phối hợp. Đến 23 giờ 32 phút ngày [[4 tháng 12]], một quả [[ngư lôi]] đánh trúng mạn tàu sân bay [[USS Lexington (CV-16)|''Lexington'']], nên ''Oakland'' phải hộ tống cho cuộc rút lui chậm chạp của nó, và về đến Trân Châu Cảng vào ngày [[9 tháng 12]].<ref name=DANFS/>
 
=== 1944 ===
''Oakland'' rời Trân Châu Cảng vào ngày [[16 tháng 1]] năm [[1944]], cùng với các tàu sân bay của Đội đặc nhiệm 58.1 hướng đến [[quần đảo Marshall]]. Đội đặc nhiệm tung ra cuộc không kích lên [[Maloelap]] vào ngày [[29 tháng 1]] và lên [[Kwajalein]] vào ngày [[30 tháng 1]]. Một cuộc đổ bộ lên Kwajalein được tiếp nối vào ngày [[1 tháng 2]], và ''Oakland'' cùng các tàu sân bay trong đội của nó tiếp tục hỗ trợ các hoạt động trên bờ cho đến khi chúng tiến vào vũng biển [[Majuro]] vào ngày [[4 tháng 2]].<ref name=DANFS/>
 
Nhổ neo vào ngày [[12 tháng 2]], các con tàu của Đội đặc nhiệm 58.1 khởi hành từ Majuro để tung ra cuộc không kích xuống [[Truk]] vào các ngày [[16 tháng 2|16]]-[[17 tháng 2]], gây hư hại đáng kể cho căn cứ hải quân quan trọng của Nhật Bản tại đây. Sau đó, bất chấp một loạt các cuộc không kích của Nhật kéo dài suốt đêm [[21 tháng 2|21]]–[[22 tháng 2]], chúng tiếp tục tấn công Mariana, nơi các pháo thủ của ''Oakland'' bắn rơi hai máy bay đối phương và trợ giúp vào việc bắn rơi hai chiếc khác trước khi quay trở về Majuro.<ref name=DANFS/>
 
''Oakland'' khởi hành cùng với Đội đặc nhiệm 58.1 vào ngày [[7 tháng 3]] hướng đến [[Espiritu Santo]] thuộc quần đảo [[Tân Hebrides|New Hebrides]]. Đội đặc nhiệm vòng qua [[quần đảo Solomon]] để hỗ trợ cho cuộc [[đổ bộ Emirau]], về phía Bắc [[New Britain]], vào ngày [[20 tháng 3]]. Đến ngày [[27 tháng 3]], đội đặc nhiệm càn quét về phía Tây [[quần đảo Caroline]], nơi các tàu sân bay chịu đựng các đợt không kích nặng nề, nhưng ''Oakland'' cùng các tàu hộ tống khác đã đánh đuổi không để gây thiệt hại nào. Chúng tấn công [[Palau]] vào ngày [[30 tháng 3]], [[Yap]] vào ngày [[31 tháng 3]] và [[Woleai]] vào ngày [[1 tháng 4]] trước khi quay trở về Majuro vào ngày [[6 tháng 4]].<ref name=DANFS/>
 
Trong suốt [[tháng tư|tháng 4]], đội đặc nhiệm thực hiện các hoạt động tương tự tại Wake và [[Sawar]]. Một lần nữa chúng tấn công Truk vào ngày [[29 tháng 4|29]]-[[30 tháng 4]], cũng như xuống [[Satawan]] vào ngày hôm sau. Các cuộc tấn công trên mặt biển và từ trên không được nhắm vào [[Pohnpei|Ponape]] trong ngày [[1 tháng 5]], trước khi ''Oakland'' rút lui về Kwajalein vào ngày [[4 tháng 5]]. Sau một đợt huấn luyện phòng không, nó trợ giúp vào việc tấn công [[Guam]] vào ngày [[11 tháng 6]], rồi di chuyển lên phía Bắc để tấn công các quần đảo [[quần đảo Volcano|Volcano]] và [[Quần đảo Ogasawara|Bonin]] vào ngày [[14 tháng 6]].<ref name=DANFS/>
 
Về phía Tây [[quần đảo Mariana]], Lực lượng Đặc nhiệm 58 được tung ra để đánh chặn một lực lượng Hải quân Nhật hùng hậu đến từ Philippines. Trong [[Trận chiến biển Philippines|Trận chiến biển Philippine]] diễn ra sau đó, mang biệt danh "Cuộc săn vịt trời Mariana vĩ đại", máy bay Mỹ đã đánh bại các phi đội trên ba đội tàu sân bay đối phương, hầu như loại bỏ phần lớn Không lực của [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản]]. Về lúc cuối trận đánh, khi bóng tối đang ụp đến, phi công Mỹ trên đường quay trở về gặp khó khăn trong việc tìm lại tàu sân bay của mình. Từ cầu tàu trên soái hạm của mình, lo ngại cho số phận thuộc cấp dưới quyền, Đô đốc Mitscher ra mệnh lệnh "Bật tất cả các đèn" bất chấp nguy cơ bị tàu ngầm đối phương tấn công. ''Oakland'' đã bật sáng các đèn pha tìm kiếm {{convert|36|in|mm|sing=on|abbr=on}} của nó, dẫn đường cho các phi công hải quân trở về.<ref name=DANFS/>
 
Sau đó Đội đặc nhiệm 58.1 tấn công xuống [[đảo Pagan]] vào ngày [[23 tháng 6]] và [[Đảo Iō|Iwo Jima]] vào ngày hôm sau. Đến ngày [[27 tháng 6]], đơn vị tập tung về [[đảo san hô Eniwetok]] để tiếp liệu, rồi đến ngày [[20 tháng 6]] di chuyển lên phía Tây Bắc đến quần đảo Bonin. Chúng tung ra cuộc tấn công trên mặt biển và từ trên không xuống Iwo Jima và [[Chichi Jima]] vào các ngày [[3 tháng 7]]-[[4 tháng 7]], rồi đến ngày [[5 tháng 7]] hướng về phía Nam quay lại quần đảo Mariana. Ngày [[7 tháng 7]], các tàu sân bay bắt đầu tung ra một loạt các cuộc không kích luân phiên xuống Guam và [[đảo Rota]], ''Oakland'' cùng với tàu khu trục [[USS Helm (DD-388)|''Helm'']] đảm trách việc giải cứu những phi công bị bắn rơi, đồng thời bắn phá các mục tiêu tại [[bán đảo Orote]].<ref name=DANFS/>
 
Lúc 08 giờ 00 ngày [[4 tháng 8]], máy bay trinh sát báo cáo về một đoàn tàu vận tải đang chạy chữ chi ra khỏi khu vực Chichi Jima. Hai giờ sau đó, máy bay từ tàu sân bay tấn công các con tàu đối phương. Một đội tấn công được nhanh chóng thành lập, bao gồm các tàu tuần dương hạng nhẹ ''Oakland'', [[USS Santa Fe (CL-60)|''Santa Fe'']], [[USS Mobile (CL-63)|''Mobile'']] và [[USS Biloxi (CL-80)|''Biloxi'']] cùng Đội Khu trục 91. Được cho tách ra khỏi đội đặc nhiệm lúc 12 giờ 41 phút, chúng di chuyển với vận tốc {{convert|30|kn|mph km/h|abbr=on}} giữa Ototo và [[Yome Jima]], đến địa điểm lúc khoảng 17 giờ 30 phút, và đến 18 giờ 45 phút đã đánh chìm một tàu chở dầu nhỏ. Một chiếc khác thuộc đoàn tàu vận tải bị tụt lại bị phát hiện lúc 19 giờ 24 phút, sau này được xác định là tàu khu trục [[Matsu (tàu khu trục Nhật)|''Matsu'']], và bị đánh chìm sau đó. Đến 21 giờ 45 phút, ''Oakland'' và các tàu tháp tùng phát hiện một tàu tiếp liệu tải trọng 7500 tấn và đã đánh chìm nó trước khi hướng về phía Nam truy lùng khu vực Chichi Jima. ''Oakland'' đã bắn ba loạt đạn pháo nhắm vào tàu bè trong cảng [[Funtami Ko]] của Chichi, và giúp làm im tiếng một khẩu đội pháo bờ biển trước khi rút lui lúc 11 giờ 19 phút ngày [[5 tháng 8]]. Nhiều tàu bè Nhật đã bị đánh chìm, một căn cứ [[thủy phi cơ]] bị hư hại, gây ra các đám cháy ở các bến tàu và nhà kho.<ref name=DANFS/>
 
Trong các ngày [[6 tháng 9|6]]-[[8 tháng 9]], đội đặc nhiệm của ''Oakland'' tấn công [[quần đảo Palau]], khi [[Peleliu]] trở thành mục tiêu chính. Chiều tối ngày [[8 tháng 9]], họ di chuyển về phía Tây để tấn công các sân bay đối phương tại [[Philippines]] cho đến ngày [[22 tháng 9]]. Ngày [[6 tháng 10]], ''Oakland'' rời [[Ulithi]] hộ tống các tàu sân bay đi về hướng [[quần đảo Nansei|quần đảo Ryukyu]] và tấn công [[Okinawa]] vào ngày [[10 tháng 10]]. Chúng tấn công các cơ sở tại [[Đài Loan]] và [[quần đảo Pescadore]] vào ngày [[12 tháng 10]], và đến 18 giờ 35 phút đã rút lui sau khi đánh trả các cuộc không kích phản công.<ref name=DANFS/>
 
Họ lại tấn công Đài Loan vào ngày [[13 tháng 10]], và một lần nữa Không quân Nhật phản công ác liệt khi lực lượng đặc nhiệm rút lui vào ban đêm. ''Oakland'' đã trợ giúp vào việc đánh trả máy bay đối phương, nhưng đến 18 giờ 35 phút, tàu tuần dương hạng nặng [[USS Canberra (CA-70)|''Canberra'']] thuộc Đội đặc nhiệm 38.1 bị hư hại bởi một quả ngư lôi, rồi sang ngày [[14 tháng 10]], tàu tuần dương hạng nhẹ [[USS Houston (CL-81)|''Houston'']] cũng bị đánh trúng ngư lôi. ''Oakland'' phải hộ tống cho việc rút lui của hai con tàu bị đánh trúng trước khi tham gia cuộc tấn công [[Luzon]] từ ngày [[17 tháng 10|17]] đến ngày [[19 tháng 10]], và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên [[leyte (đảo)|đảo Leyte]] vào ngày [[20 tháng 10]].<ref name=DANFS/>
 
Trên đường đi đến Ulithi vào ngày [[24 tháng 10]], ''Oakland'' được lệnh quay trở lại ngay lập tức để giúp ngăn chặn Hạm đội Nhật Bản vốn đã tập trung tại [[vịnh Leyte]]. Tuy nhiên, vào lúc nó đi đến nơi, đối phương đã bị đẩy lùi, và các tàu sân bay tung ra các cuộc tấn công tầm xa vào đối phương đang rút lui. [[Trận chiến vịnh Leyte]] cuối cùng đã đánh dấu kết thúc sự có mặt của [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản]] như một thế lực hải quân hiệu quả. Từ [[tháng mười một|tháng 11]] đến [[tháng mười hai|tháng 12]], ''Oakland'' hoạt động cùng với nhiều đội đặc nhiệm khác nhau của Lực lượng Đặc nhiệm 38 trong việc hỗ trợ cho chiến dịch giải phóng Philippine. Vào ngày [[18 tháng 12]], nó vượt qua được một cơn [[bão]] trong vùng biển Philippine, tránh không bị hư hại đáng kể.<ref name=DANFS/>
 
=== 1945 ===
''Oakland'' quay trở về San Francisco vào ngày [[11 tháng 1]] năm [[1945]], nó tiếp tục ở lại đây để sửa chữa và chạy thử máy cho đến khi khởi hành đi [[Hawaii]] vào ngày [[4 tháng 3]]. Đi đến Trân Châu Cảng vào ngày [[9 tháng 3]], bắt đầu các hoạt động huấn luyện bổ sung ở phía Nam [[Oahu]]. Nó nhận được lệnh điều động vào ngày [[14 tháng 3]] di chuyển đến, khu vực tập trung lực lượng cho chiến dịch Okinawa. Đi đến Ulithi vào ngày [[30 tháng 3]], nó lại lên đường cùng các đơn vị khác ngay ngày hôm sau, tham gia cuộc đổ bộ đầy tham vọng nhất trong cuộc chiến tại Thái Bình Dương. Đến ngày [[2 tháng 4]], lực lượng được cho tách ra; ''Oakland'' tiếp tục di chuyển để tham gia Đội đặc nhiệm 58.4. Trong năm ngày, nó tham gia cuộc tấn công [[Sakashima Gunto]] về phía Nam [[Nansei Shoto]] rồi tiếp tục di chuyển đến Okinawa. Vào ngày [[10 tháng 4]], ''Oakland'' được điều về Đội đặc nhiệm 58.3 cho suốt thời gian còn lại của chiến dịch Okinawa. Nó chịu đựng một cuộc không kích vào ngày [[11 tháng 4]] và các pháo thủ của nó đã bắn rơi một máy bay ném ngư lôi.<ref name=DANFS/>
 
Cùng với các đơn vị khác của Lực lượng Đặc nhiệm 58, ''Oakland'' di chuyển lên phía Bắc vào ngày [[15 tháng 4]] để tung ra cuộc tấn công vào các sân bay trên đảo [[Kyushu|Kyūshū]]. Máy bay đối phương nhiều lần tìm cách xuyên qua hàng rào máy bay tuần tra chiến đấu. Hai lần các khẩu pháo trên chiếc tàu tuần dương đã phải nổ súng, phá hủy một chiếc "France" và đẩy lùi những chiếc khác. Công trình phòng thủ Okinawa lại bị tấn công vào ngày [[17 tháng 4]]. [[Thần phong|Kamikaze]] lại lọt qua hàng rào phòng thủ sáng hôm đó và ''Oakland'' bắn cháy hai chiếc khi chúng bay ngang con tàu. Cả hai bị rơi ngay giữa đội hình đội đặc nhiệm, trong đó một chiếc do công của ''Oakland''. Ngày [[29 tháng 4]], ''Oakland'' lại đánh đuổi một máy bay đối phương khác. Đội đặc nhiệm 58.3 đã đánh bại thành phần không lực ưu tú nhất mà [[Lục quân Đế quốc Nhật Bản|Lục quân Nhật Bản]] có thể đưa ra trong ngày 11 của [[tháng tư|tháng 4]]. Thời gian còn lại được dành cho các cuộc tấn công bổ sung xuống Okinawa, đồng thời thực hành tác xạ với mục tiêu giả được kéo đi.<ref name=DANFS/>
 
Máy bay đối phương lại bắt đầu rình mò gần đội đặc nhiệm vào sáng sớm ngày [[11 tháng 5]]; thủy thủ đoàn của ''Oakland'' bước vào trực chiến ngay sau đó, nhưng cuộc tấn công đã không được thực hiện. Hai chiếc kamikaze đã bổ nhào xuống sàn đáp của tàu sân bay [[USS Bunker Hill (CV-17)|''Bunker Hill'']] lúc đang ở cách chiếc tàu tuần dương {{convert|2000|yd|m|abbr=on}}. Ba chiếc bè cứu sinh đã được ''Oakland'' thả xuống để giúp vào việc cứu vớt những người bị nạn trên chiếc ''Bunker Hill'' ngay trước mắt.<ref name=DANFS/>
 
Lực lượng đặc nhiệm lại tấn công các sân bay tại Kyūshū vào ngày [[13 tháng 5]]. Đến ngày [[14 tháng 5]], phía Nhật Bản đáp trả. Không lâu sau bình minh, một chiếc máy bay đơn độc bị phát hiện đang lượn vòng qua đám mây và các xạ thủ của ''Oakland'' nhanh chóng nổ súng, nhưng mục tiêu nhanh chóng lẫn khuất vào mây. Rồi nó lại xuất hiện trở lại như một ngôi sao băng, tàu sân bay [[USS Enterprise (CV-6)|''Enterprise'']] gánh chịu toàn bộ sức mạnh của cuộc tấn công khi nó đâm bổ và nổ tung trên sàn đáp. Liền sau đó, một toán kamikaze xuất hiện, và trong vòng 15 phút, ''Oakland'' bắn cháy bốn máy bay đối phương; nó cũng trợ giúp vào việc tiêu diệt hai chiếc khác.<ref name=DANFS/>
 
Trong suốt [[tháng năm|tháng 5]], ''Oakland'' tiếp tục ở lại cùng với đội đặc nhiệm ngoài khơi Okinawa. Vào ngày [[29 tháng 5]], nó được điều trở lại Đội đặc nhiệm 38.1 và quay trở lại vịnh Leyte, thả neo tại [[vịnh San Pedro (Philippines)|vịnh San Pedro]] vào ngày [[1 tháng 6]]. Vào ngày [[10 tháng 7]], Đội đặc nhiệm 38.1 tiến hành các cuộc không kích xuống chính quốc Nhật Bản, bắt đầu từ Honshū rồi tiến lên phía Bắc đến [[Hokkaidō]]. Từ ngày [[17 tháng 7|17]] đến ngày [[20 tháng 7]], ''Oakland'' tham gia các cuộc không kích xuống [[Tōkyō|Tokyo]], và trong các ngày [[24 tháng 7|24]]–[[25 tháng 7]], xuống [[Kure, Hiroshima|Kure]] và [[Kobe]]. Tokyo lại bị tấn công vào ngày [[30 tháng 7]] cùng với [[Nagoya]]. Ngày [[7 tháng 8]], các con tàu hướng lên phía Bắc để tấn công khu vực Hokkaidō một lần nữa.<ref name=DANFS/>
 
Ngày [[15 tháng 8]] được đánh dấu bằng một mệnh lệnh từng được chờ đợi rất lâu: "ngừng mọi hoạt động tấn công". Sau đó ''Oakland'' đi đến khu vực hoạt động được chỉ định cho việc chiếm đóng Nhật Bản. Lên đường vào ngày [[30 tháng 8]], ''Oakland'' thả neo tại [[vịnh Tokyo]] vào ngày hôm sau, ngay phía ngoài phá chắn nước của [[Căn cứ Hải quân Yokosuka]]. Neo đậu không xa chiếc [[thiết giáp hạm]] [[USS Missouri (BB-63)|''Missouri'']], địa điểm diễn ra buổi lễ ký kết văn kiện [[Nhật Bản đầu hàng]] vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[1945]], thủy thủ của ''Oakland'' đã có dịp tận mắt chứng kiến những giờ phút khó quên khi chiến tranh chính thức chấm dứt.<ref name=DANFS/>
 
=== Sau chiến tranh ===
[[Tập tin:Mast of USS Oakland CL-95 at Oakland.jpg|nhỏ|Cột ăn-ten của USS ''Oakland'' tại công viên Middle Harbor Shoreline ở [[Oakland, California]].]]
Trong khi ''Oakland'' thả neo tại [[vịnh Tokyo]] trong đêm [[27 tháng 9]], một cơn [[bão]] đã càn quét qua lối ra vào cảng. Một tàu chở dầu bị đứt neo đã va trúng mũi của ''Oakland'', gây hư hại nhẹ.<ref name=DANFS/>
 
Ngày [[1 tháng 10]], ''Oakland'' lên đường đi Okinawa để đón lên tàu các cựu quân nhân hồi hương trong khuôn khổ [[Chiến dịch Magic Carpet (Thế Chiến II)|Chiến dịch Magic Carpet]] nhằm đưa họ quay về San Francisco. Rời Okinawa ngày [[3 tháng 10]], nó về đến San Francisco vào ngày [[20 tháng 10]]. [[Ngày Hải quân]] [[27 tháng 10]] tại [[Oakland, California]], thành phố mà nó mang tên, được đánh dấu bằng sự hiện diện của chiếc tàu tuần dương vừa chiến thắng trở về. Các nhiệm vụ "Magic Carpet" tiếp theo trong [[tháng mười một|tháng 11]] và [[tháng mười hai|tháng 12]] đã đưa ''Oakland'' quay trở lại Thái Bình Dương thêm hai lần, lần đầu đến [[Eniwetok]] và lần sau là Kwajalein. Đến cuối năm, Hải quân Mỹ giao lại hoàn toàn nhiệm vụ này cho các tàu dịch vụ vận chuyển, và ''Oakland'' được cho ngừng hoạt động tại [[Bremerton, Washington]].<ref name=DANFS/>
 
Sau một đợt đại tu tại [[Xưởng hải quân Puget Sound]], chiếc tàu tuần dương được cho hoạt động trở lại. Từ [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[1946]] đến [[tháng một|tháng 1]] năm [[1947]], ''Oakland'' hoạt động tại vùng phụ cận San Diego như một tàu huấn luyện tác xạ hạm đội; rồi từ ngày [[6 tháng 1]] đến ngày [[8 tháng 9]] năm [[1947]], nó tham gia một chuyến đi huấn luyện đến khu vực Tây Thái Bình Dương. Đến ngày [[18 tháng 3]] năm [[1949]], ''Oakland'' được tái xếp lớp với ký hiệu lườn mới '''CLAA-95'''; và đến ngày [[1 tháng 7]] năm [[1949]], ''Oakland'' được cho ngừng hoạt động lần cuối cùng tại San Francisco. Được rút khỏi danh sách [[Đăng bạ Hải quân]] vào ngày [[1 tháng 3]] năm [[1959]], nó được bán cho hãng Louis Simons vào ngày [[1 tháng 12]] cùng năm đó để tháo dỡ.<ref name=NavSource/><ref name=DANFS/>
 
Cột ăn-ten và tấm biển tên của ''Oakland'' được giữ lại và trao tặng cho thành phố Oakland. Vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[2002]], chúng được đặt tại công viên Middle Harbor Shoreline cạnh cảng Oakland, bên bờ phía Tây, tại địa điểm nguyên là Trung tâm Tiếp liệu Hạm đội và Công nghiệp.<ref name=DANFS/>
 
== Phần thưởng ==
''Oakland'' được tặng thưởng chín [[Ngôi sao Chiến đấutrận]] do thành tích phục vụ trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]].<ref name=NavSource>{{chú thích web | last=Yarnall | first=Paul | url=https://www.navsource.org/archives/04/095/04095.htm | title=USS Oakland (CL 95/CLAA 95) | website=NavSource.org | date=31 December 2018 | accessdate=20 March 2021}}</ref>
<center>
{|
|colspan=3 align=center |{{ribbon devices|number=0|type=service-star|ribbon=Combat Action Ribbon.svg|width=103}} {{ribbon devices|number=0|type=service-star|ribbon=China Service Medal ribbon.svg|width=103}}
|-
|{{ribbon devices|number=0|type=service-star|ribbon=American Campaign Medal ribbon.svg|width=103}}
|{{ribbon devices|number=9|type=service-star|ribbon=Asiatic-Pacific Campaign Medal ribbon.svg|width=103}}
|{{ribbon devices|number=0|type=service-star|ribbon=World War II Victory Medal ribbon.svg|width=103}}
|-
|{{ribbon devices|number=0|type=service-star|ribbon=Army of Occupation ribbon.svg|width=103}}
|{{ribbon devices|number=0|type=service-star|ribbon=Presidential Unit Citation (Philippines).svg|width=103}}
|{{ribbon devices|number=2|type=service-star|ribbon=Phliber rib.svg|width=103}}
|}
{|class="wikitable"
|-align=center
|colspan=2 |[[Dãi băng Hoạt động Tác chiến]]
|colspan=2 |[[Huân chương Phục vụ Trung Hoa]]
|-align=center
|[[Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ]]
|colspan=2 |[[Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương]]<br>với 9 [[Ngôi sao Chiến trận]]
|[[Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II (Hoa Kỳ)|Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II]]
|-align=center
|[[Huân chương Phục vụ Chiếm đóng Hải quân]]
|colspan=2 |[[Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Philippine]]
|[[Huân chương Giải phóng Philippine]] <br>với 2 Ngôi sao Chiến trận
|}
</center>
 
== Tham khảo ==
=== Chú thích ===
* Bài này có các trích dẫn từ nguồn [[:en:Dictionary of American Naval Fighting Ships]] thuộc [[phạm vi công cộng]].
{{Tham khảo}}
=== Thư mục ===
* {{chú thích sách| last=Friedman | first=Norman | title=U.S. Cruisers: an illustrated design history | publisher=Naval Institute Press | location=Annapolis, MD | year=1984 | isbn=0870217186 | oclc=10949320 | ref=Harv}}
* {{cite DANFS | title=Oakland II (CL-95) | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/o/oakland-ii.html | author=[[Naval Historical Center]] | accessdate=17 May 2021}}
 
== Liên kết ngoài ==