Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Lào (sau năm 1945)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 6:
Sau khi [[Nhật Bản xâm lược Đông Dương|Nhật Bản tiến vào Lào]], [[Quân đội Pháp|lực lượng Pháp]] tại đây ngày càng suy yếu, quyền kiểm soát ở Lào dần rơi vào tay người Nhật. [[Quân đội Thái Lan|Thái Lan]] đã tổ chức một số cuộc tấn công thăm dò lực lượng Pháp ([[Chiến tranh Pháp–Thái|Chiến tranh Pháp-Thái 1940-41]]) xung quanh các khu vực [[Pakse]], [[Champasak]] và [[Xayabury]]. Nhật Bản đã đứng trung gian làm hòa giải cho Thái Lan và Pháp, theo đó một số vùng đất của Lào và [[Campuchia]] được trao cho Thái Lan theo thỏa thuận hòa bình. Điều này đã gây ra bất bình trong giới tinh hoa Lào thường thân Pháp, vì họ không có đại diện nào tham gia vào việc đàm phán này.
 
Sự gia tăng ảnh hưởng của Nhật Bản ở Lào cũng đã khuyến khích tinh thần chủ nghĩa dân tộc - tại Viêng Chăn năm 1941 [[Charles Rochet]] và một nhóm trí thức người Lào đã thành lập một tạp chí có tên là "Lao Nhay" (Nước Lào vĩ đại), nơi truyền bá tư tưởng chủ nghĩa dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của [[Pramoj Seni]] (Đại sứ Thái Lan tại Washington, người đã từ chối trình bày lời tuyên chiến của Thái với Mỹ), [[Cơ quan Tình báo chiến lược|Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ]] (OSS, tiền thân của [[CIA]]) đã thành lập một phong trào chống Nhật được gọi là "[[Seri Thai]]" (Thái tự do). Máy bay đã thả vũ khí và thiết bị để chuyển cho cơ quan này, điều này đã hình thành một hệ thống du kích ở Thái Lan. Tuy nhiên, có nhiều thành viên gốc Lào chống Bangkok nhiều như chống Nhật. Mục đích thực sự của họ là sử dụng tình trạng hỗn loạn sau thất bại của quân Nhật để thành lập một nhà nước "Đại Lào", hợp nhất nước Lào ở Đông Dương thuộc Pháp và các tỉnh Đông Bắc Thái Lan thành một nước Lào thống nhất. Ít nhất thì ban đầu họ có được sự hậu thuẫn từ [[Hoa Kỳ]]. Tách khỏi Seri Thai, họ thành lập "[[Lao Pen Lao]]" (LPL - người Lào vì Lào), và đã thu hút được nhiều thành viên tham gia, trong đó có các hoàng thân và quan lại làm việc cho Pháp có học thức người Lào, đặc biệt là những người ở phía nam Lào lo sợ sự thống trị của Luang Prabang ở phía bắc. Vào tháng 2 năm 1945, LPLLao Pen Lao thành lập một tổ chức chống thực dân được gọi là "[[Sannibat lao ekkalat]]" (Liên đoàn Lào Độc lập).
==Vương quốc Lào==
Tháng 3 năm 1945, [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] [[Chiến dịch Đông Dương (1945)|lật đổ ách thống trị]] của Pháp trên toàn cõi [[Đông Dương thuộc Pháp|Đông Dương]], bao gồm [[Lào]]. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1945, Vua [[Sisavang Vong]] và Vương thân [[Phetsarath Rattanavongsa|Phetsarath]] đã tuyên bố rằng [[vương quốc Luang Phrabang]] không còn là một chính quyền do Pháp bảo hộ, Nhật Bản trao trả độc lập cho Lào trên danh nghĩa. Trong khi Phetsarath là thành viên của LPLLao Pen Lao, thì vua Sisavang Vong là người thân Pháp, và chỉ từ bỏ sự bảo hộ khi bị Nhật Bản ép buộc và theo sự thúc giục của Vương thân Phetsarath. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 8 năm 1945, [[Nhật Bản đầu hàng]].
 
Từ những năm 1941, Phetsarath đã xây dựng Vệ binh Dân sự Viêng Chăn (Thống sứ Lào biết điều này, nhưng bất lực để can thiệp). Sau khi đầu hàng, người Nhật ở Lào đã bàn giao vũ khí cho lực lượng Phetsarat vào ngày 27 tháng 8 năm 1945, và Vương thân quyết định điện cho người em cùng cha khác mẹ là Hoàng thân [[Souphanouvong|Chao Souphanouvong]], người đang ở Việt Nam (đã gặp Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]] - OSS đã cung cấp một chiếc máy bay để đưa ông từ Vinh nơi ông ở để gặp Bác Hồ ở Hà Nội), về nước để chỉ huy các lực lượng vũ trang dân tộc. Souphanouvong đến Savannakhet vào ngày 6 tháng 10 năm 1945 và phát hiện ra rằng nhánh phía nam của LPLLao Pen Lao đã thiết lập quân có vũ trang ở đây, dưới sự chỉ huy của Oun Sananikone (người từng là sĩ quan trong Quân đội Thái Lan trong Chiến tranh Pháp-Thái) và Phoumi Nosavan (trước đây là Thư ký của Sureté). Vào ngày 8 tháng 10 tại Thakhek, Souphanouvong thành lập [[Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào]] (Armée de libération et de défense Lao - ALDL) từ đội cận vệ riêng của ông, đội quân dưới quyền gồm quân của Sananikone và Nosavan, Cận vệ Đông Dương (Garde Indochinoise - dân quân bản địa) ở Thakhek, và Vệ binh Dân sự Viêng Chăn. Hoàng thân trở thành Tổng tư lệnh, với Sananikone là phó tư lệnh ([[:en:Aide-de-camp|Aide-de-camp]]) và Nosavan là Tham mưu trưởng.
 
Các thành viên LPLLao Pen Lao phía nam đã thành lập một Ủy ban để kiểm soát khu vực này vào ngày 8 tháng 10, và vào ngày 9 một cơ quan tương tự đã được thành lập tại Viêng Chăn. Những người này đồng ý hợp nhất dưới quyền Phetsarat, người đã tuyên bố Lào độc lập dưới một chính phủ mới gọi là [[Lào Issara|Lao Issara]] ("Lào tự do" - LI, đôi khi được gọi là Lao Itsala), và Chính phủ lâm thời này (dưới quyền của Khammao Vilay, tỉnh trưởng Viêng Chăn) đã ban hành hiến pháp ngày 16 tháng 10 năm 1945. Chính quyền mới bao gồm những người theo chủ nghĩa dân tộc với nhiều thành phần khác nhau - cánh hữu, cánh tả và trung dung. Đông thời tuyên bố tất cả các hiệp ước với Pháp bị vô hiệu, và thông qua Quốc ca và quốc kỳ mới (trở thành quốc kỳ Pathet Lào, và sau đó là quốc kỳ chính thức của Lào sau khi nước [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào]] được thành lập năm 1975). Souphanouvong được làm [[Bộ Quốc phòng Lào|Bộ trưởng Bộ Quốc phòng]] và [[Bộ Nội vụ Lào|Nội vụ]].
 
Các vấn đề phức tạp khi, theo [[Hiệp định Potsdam]] tháng 7 năm 1945, [[quân đội Trung Hoa Dân Quốc]] do Sư đoàn 93 tiến vào Lào để giải giáp quân Nhật. Nhận thấy rằng người Nhật đã rời đi, quân Trung Quốc bắt đầu cướp phá Lào, và đặc biệt là chiếm giữ rất nhiều nhiều thuốc phiện. Nhìn chung, quân Trung Quốc khá trung lập ở Lào, và chỉ hành động chống lại những tổ chức đe dọa họ. LILào Issara thường cẩn thận để tránh kích động người Trung Quốc.
 
Tuy nhiên, Đại tá [[:de:Hans Imfeld|Imfeld]] (Cao ủy Pháp tại Lào) cùng một nhóm quân đội Pháp đã tiến vào chiếm Luang Prabang vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngay trước khi Trung Quốc đưa quân vào Lào) và tiếp kiến vua Sisavang. Họ yêu cầu Phetsarat phải bị cách chức và quốc gia trở lại chế độ bảo hộ của Pháp. Nhà vua đồng ý, tại thời điểm đó Phetsarat và LaoLào Issara đã phế truất Sisavang vì sự cộng tác của ông với người Pháp, và Vương thân Phetsarat được tuyên bố là nguyên thủ quốc gia. Quân Trung Quốc đến Luang Prabang và tước vũ khí của quân đội Imfeld vào ngày 23 tháng 9 (và sau đó ông bị chính quyền Lào Issara bắt giam). Quân Trung Quốc đã không rời khỏi Lào cho đến tháng 3 năm 1946.
 
Ngày 30 tháng 10 năm 1945, Chính phủ lâm thời ký hiệp ước và liên minh với [[Việt Minh]], nhưng đến tháng 1 năm 1946, một lực lượng gồm 600 lính dù Pháp với hơn 4,000 quân địa phương bắt đầu chiến dịch chống lại Lào Issara, với sân bay Paksane là cơ sở tiếp tế chính. Bất chấp các cáo buộc của chính phủ LILào Issara, quân Trung Quốc không can thiệp và theo dõi cuộc tranh giành quyền kiểm soát Lào. Hai trong số những nhóm quân tích cực nhất là của người Hmong, nhóm [[Touby Ly Foung]], và bạn học cũ của ông, [[Tiao Saykham]] (một thành viên hoàng gia Xieng Khouang). Hai nhóm này, với sự hỗ trợ hạn chế của Pháp, đã bao vây thành phố Xiêng Khoảng (thuộc Cánh đồng Chum) trong hai tuần trước khi nó thất thủ vào sáng ngày 27 tháng 1.
 
Người Hmong được sử dụng đặc biệt nhiều bởi quân đội Pháp trở lại bằng cách "kiềm chế" ALDLQuân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào trong các thị trấn và thành phố, cắt đứt hoặc đánh bại các đơn vị "tự vệ" ở bản (làng) khác nhau. Các lực lượng Pháp, gồm cả Trung đoàn Không quân Đặc biệt Anh (SAS), và đội "biệt kích" được trang bị nhẹ với xe jeep và xe tải - bao gồm các thành phần của [[:fr:5e régiment d'infanterie coloniale|Trung đoàn bộ binh thuộc địa 5e]] (5e RIC) và quân nhảy dù "Commando Conus" (do [[Adrien Conus]] chỉ huy), bắt đầu cô lập các thành phố đô thị trong tháng 2 năm 1946, và vào cuối tháng này, ALDLQuân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào đã bị bao vây ở Luang Prabang, Viêng Chăn, Savannakhet và đặc biệt là Thakhek. Việt Minh ký một lệnh ngừng bắn với Pháp vào ngày 6 tháng 3 năm 1946, nhưng chính phủ LILào Issara ở Viêng Chăn vẫn tuyên bố quyết tâm tiếp tục chiến tranh vào ngày 12 tháng 3.
 
Người Pháp tái chiếm [[Muang Phine]] vào ngày 14 tháng 3 năm 1946, sau đó là Savannakhet vào ngày 17, Thakhek vào ngày 21, Sépone vào ngày 23 và NapéNape vào ngày 11 tháng 4. Souphanouvong dẫn lực lượng hỗn hợp của mình đương đầu với quân Pháp trước khi Pháp tiến vào Viêng Chăn, nhưng tại [[Thakhek|Thà Khẹt]], quân Souphanouvong đã thất bại, và bản thân Souphanouvong bị thương nặng. Như vậy, tính đến tháng 4 năm 1946, toàn bộ miền nam và miền trung Lào nằm dưới sự kiểm soát của Pháp. Viêng Chăn thất thủ vào ngày 24 tháng 4, Chính phủ Issara Lào chạy sang Thái Lan và lập chính phủ lưu vong ở Bangkok do Phetsarat lãnh đạo. Vào giữa tháng 5, Pháp đến Luang Phrabang để giải cứu vị vua trung thành, vua Sisavang. Như một phần thưởng cho lòng trung thành của ông, vào tháng 8, người Pháp đã phong ông là Vua của Lào.
 
LILào IssaraALDLQuân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào tuy không thành công về mặt quân sự, nhưng các hành động đã nâng cao chủ nghĩa dân tộc ở Lào. Sai lầm chính của ALDLQuân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào, không giống như Việt Minh, cố gắng chống lại cuộc chiến tranh quân sự với người Pháp. Người Pháp dễ dàng cô lập và đánh bại các đơn vị đồn trú khác nhau - mặc dù chiến đấu dũng cảm (đặc biệt là ở Ban Keun, Thakhek và Savannakhet), nhưng không thể so sánh được với lực lượng chuyên nghiệp của Pháp. Bản thân Souphanouvong bị thương nặng ở Thakhek, phải nhập viện điều trị một thời gian ở Thái Lan. Sau thất bại của họ, các cuộc giao tranh lẻ tẻ giữa tàn dư CFEO và ALDLQuân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào tiếp tục cho đến tháng 9.
 
Đến thời điểm này, phần lớn những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn đã bị xử tử, cầm tù hoặc lưu đày. Lực lượng ALDLQuân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào còn lại giờ đã được phân chia thành hai phần đóng ở biên giới Thái Lan và ở biên giới Việt Nam. Với việc loại bỏ những người theo chủ nghĩa dân tộc này (người Pháp gọi là Lào-Việt), "[[modus vivendi]]" đã được thương lượng giữa người Pháp, những người trung thành với Lào và những người theo chủ nghĩa dân tộc ôn hòa. Bằng cách này, Vua Sisavong Vong và con trai ông, Thái tử Savang Vathana (người không đặc biệt ái mộ Pháp), đã thành lập một chính quyền mới. Một phần của các cuộc thảo luận đã dẫn đến việc người tuyên bố lên ngôi Champasak (Hoàng thân Boun Oum) từ bỏ yêu sách của mình để ủng hộ Sisavong Vong, và do đó mở đường cho một nước Lào thống nhất với một vị vua duy nhất, vương quốc Champasak bị bãi bỏ, và Hoàng thân [[Boun Oum]] Na Champassak được bồi thường với chức danh Tổng thanh tra Vương quốc Lào. Hiệp ước đã được ký bởi Savang Vathana và Cao ủy Pháp ở Lào [[De Raymond]] vào ngày 27 tháng 8. Các cuộc bầu cử đã được tổ chức cho chính phủ mới vào ngày 11 tháng 10 năm 1946, kết quả là chính phủ lâm thời của Hoàng thân Kindavong (anh cùng cha khác mẹ của Phetsarat). Chính quyền này được gọi là Chính phủ Hoàng gia Lào (RLG), và cầm quyền bằng hình thức này hay hình thức khác cho đến năm 1975. Các tỉnh của Lào đã bị Thái Lan sáp nhập vào năm 1941 được trao trả cho Lào vào ngày 7 tháng 12 năm 1946.
===Nỗ lực nâng cấp Lào===
Pháp đã thực hiện một nỗ lực muộn để trao cho Lào các thể chế của một nhà nước hiện đại thay cho một nhà nước phong kiến. [[Garde Indigène]] được thay thế bằng [[Vệ binh Quốc gia Lào]], và một lực lượng cảnh sát Lào được thành lập. Các cuộc bầu cử [[Quốc hội Lào|Quốc hội Lập hiến]], trên cơ sở nam giới phổ thông đầu phiếu, được tổ chức vào tháng 12 năm 1946, và hiến pháp mới được công bố vào ngày 11 tháng 5 năm 1947 đã trao cho Lào một chính phủ nghị viện với Quốc hội được bầu ra. Quốc hội đã thông qua [[Hiến pháp Lào|hiến pháp]] xác nhận tình trạng Lào là một quốc gia quân chủ lập hiến và một "nhà nước tự trị" trong [[Liên hiệp Pháp]].
Dòng 38:
Lào đã nộp đơn xin gia nhập [[Liên hợp quốc]], nhưng đơn xin gia nhập đã bị [[Liên Xô]] phủ quyết. Không có biện pháp nào trong số này che giấu thực tế rằng Pháp vẫn nắm quyền kiểm soát thiết yếu đối với Lào. Các vấn đề đối ngoại, quốc phòng và tài chính trên thực tế vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, và tài phán chỉ được trao cho các bộ trưởng Lào một cách từ từ. Quan trọng nhất, Quân đội Pháp giữ quyền hoạt động tự do tại Lào, và ra lệnh cho các lực lượng Lào mà không cần tham vấn các bộ trưởng Lào.
 
Trong khi đó, chính phủ lưu vong Lào Issara đã lên kế hoạch cho một cuộc nổi dậy theo chủ nghĩa dân tộc chống lại người Pháp và những gì được coi là con rối Lào của Pháp ở Viêng Chăn. Chính phủ lưu vong Lào Issara phân hóa thành hai khu vực, với hai lập trường khác nhau. Ở khu vực biên giới Thái Lan, LILào Issara duy trì lập trường chủ nghĩa dân tộc, sau đó sẽ sát nhập vào Quân đội Hoàng gia Lào; ở khu vực biên giới Việt Nam, ILLào Issara tại đây duy trì theo đường lối của Việt Minh. Trong một thời gian, lực lượng Lào Issara, dưới sự chỉ huy của Souphanouvong, đã có thể hoạt động từ các căn cứ ở Thái Lan, và đạt được một số thành công, đặc biệt là xung quanh Savannakhet.
 
Chính phủ lưu vong LILào Issara, ở Bangkok, do Phetsarat đứng đầu, người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, và bao gồm nhiều phe phái khác nhau liên minh một cách miễn cưỡng. Sự tồn tại của LILào Issara dựa trên một nhà nước Thái Lan thân mật, và sau Thế chiến 2 với một chế độ cầm quyền bởi Seri Thai. Tuy nhiên, vào tháng 11 năm 1947, một cuộc đảo chính quân sự ở Bangkok đã đưa Thống tướng [[Plaek Phibunsongkhram|Phibun]] trở lại nắm quyền với sự hậu thuẫn ngầm của Mỹ. Ông là người chống cộng sản, tìm cách khôi phục mối quan hệ với Pháp do đó đã thúc ép LILào Issara tìm kiếm mối quan hệ hợp tác với Pháp, đồng thời ra lệnh đóng cửa các cân cứ Lào Issara ở đất Thái. Giờ đây, Issara Lào Issara chỉ có thể tiến hành các cuộc hành quân vào Lào từ lãnh thổ do lực lượng Việt Minh kiểm soát.
 
Vào năm 1949, Hoàng thân Souvanna Phouma bắt đầu đàm phán với Viêng Chăn, dẫn đến việc Nhà vua tuyên bố ân xá. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1949, LILào Issara ở Bangkok giải tán Chính phủ lưu vong bất chấp sự phản đối của Phetsarat và những người khác. Các thành viên cánh hữu và trung dung của LILào Issara không còn (bao gồm Hoàng thân Souvanna Phouma, Khammao Vilay và Hoàng thân Phoui Sananikone) bay trở lại Viêng Chăn và gia nhập vào hệ thống chính trị Vương quốc Lào. Lực lượng ALDLQuân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào ở biên giới Thái Lan-Lào đã tái gia nhập Quân đội Hoàng gia Lào và trở thành một phần của RLAQuân đội Hoàng gia Lào mới. Tháng 8 năm 1951, Souvanna Phouma trở thành Thủ tướng, khẳng định vị thế của ông với tư cách là nhà lãnh đạo mới của Lào phi cộng sản.
 
Tuy nhiên, những người bất đồng chính kiến ​​(Phetsarat, Souphanouvong, Kaysone Phomvihane và những người khác) từ chối chấp thuận lệnh ân xá, và tố cáo những người chấp thuận là những kẻ phản bội. Nouhak Phoumsavanh, lãnh đạo ALDLQuân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào ở biên giới Việt Nam, cũng từ chối chấp thuận và tái gia nhập quân đội chính quy. Với việc Bangkok ngày càng trở nên thù địch, các chính trị gia dân tộc chủ nghĩa lưu vong đã di chuyển trở lại Đông Bắc Lào để phụ trách cuộc đấu tranh mới. Chỉ có Phetsarath là sống lưu vong ở Thái, nhưng đến nay ông đã mất đi ảnh hưởng trước đây của mình.
==Cộng sản Lào==
Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) được thành lập bởi Hồ Chí Minh và một số người khác tại Hồng Kông vào năm 1930. Thành viên ban đầu hoàn toàn là người Việt Nam, nhưng, như tên gọi của Đảng, Đảng đã được Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva giao trách nhiệm cho toàn bộ Đông Dương thuộc Pháp. Trong những năm 1930, tổ chức này đã tuyển dụng một số thành viên Lào, chủ yếu là giáo viên và các công chức cấp trung khác có trình độ học vấn phương Tây. Về mặt cấu trúc xã hội, Lào có ít cơ hội cho thuyết kích động cộng sản chính thống. Lào có rất ít giai cấp công nhân, ngoại trừ một số người trong ngành khai thác thiếc.
Dòng 50:
Không có "vấn đề nông dân" ở Lào: hơn 90% người Lào là nông dân trồng lúa và sở hữu đất đai cá nhân. Không có địa chủ như ở Trung Quốc và không có giai cấp vô sản nông thôn không có ruộng đất. Các vị trí lãnh đạo duy nhất trong Mặt trận Lào Tự do. Những người này bao gồm [[Faydang Lobliayao]], một thủ lĩnh của người Hmong ở phía bắc, và Sīthon Kommadam, con trai của [[Ong Kommadam]], thủ lĩnh phiến quân phía nam người [[Lào Thơng]].
 
Tuy nhiên, vào cuối những năm 1940, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tuyển dụng một số cốt cán là các nhà hoạt động, một số người trong số họ là người Lào gốc Việt như Kaysone, một số có mối quan hệ hôn nhân với người Việt Nam, chẳng hạn như Nouhak Phoumsavanh. Sự suy yếu của Pháp và sự thất bại của chính phủ LILào Issara đã tạo cơ hội, vì sau năm 1949, cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân chỉ có thể được tiến hành từ các căn cứ ở Việt Nam và với sự hỗ trợ của những người cộng sản Việt Nam.
 
Vào ngày 20 tháng 1 năm 1949, quân đội ALDLQuân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào ở phía đông bắc đã tự đổi tên thành "Quân đội Giải phóng Nhân dân" (tiền thân [[Quân đội Nhân dân Lào]] sau này). Các chỉ thị được ban hành dưới danh nghĩa của [[Pathet Lào]] (Nhà nước Lào) và do đó lực lượng này, dưới sự chỉ huy của [[Kaysone Phomvihane]], được biết đến nhiều hơn với tên gọi Pathet Lào (PL). Khi những người bất đồng chính kiến ​​cánh tả từ LILào Issara di chuyển lên phía Đông Bắc, họ đã thành lập [[Neo Lao Issara]] (NLI - "Mặt trận Giải phóng Lào" hay còn được gọi "Mặt trận Lào Tự do") tại "Đại hội Quốc gia Lào" được tổ chức tại [[Sam Neua]] vào ngày 13-15 tháng 8 năm 1950, với 150 đại biểu (từ khắp Lào) tham dự. Họ đã hệ thống hóa "12 điểm chính trị kháng chiến quốc gia", và thành lập một Chính phủ mới (Chính phủ Kháng chiến đất nước Lào) đối lập với RLGChính phủ Hoàng gia Lào, do Chao [[Souphanouvong]] đứng đầu.
 
Theo mô hình Việt Minh, họ bắt đầu xây dựng một căn cứ hỗ trợ ở các khu vực miền núi bằng sự kết hợp giữa trình độ học vấn, sức mạnh quân sự và mối đe dọa. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1951, một đại hội chung đã được tổ chức giữa Việt Minh, NLINeo Lao Issara và [[Mặt trận Issarak Thống nhất|Mặt trận Issarak]] của Campuchia. Điều này tuyên bố sự thống nhất về mục đích giữa những người cách mạng Việt Nam, Lào và Khmer. Những người cộng sản đã khôn khéo đề bạt đại diện của các dân tộc thiểu số vùng cao vào các vị trí lãnh đạo trong Mặt trận Lào Tự do. Những người này bao gồm Faydang Lobliayao, một thủ lĩnh của người Hmong ở phía bắc, và Sithon Kommadam, con trai của Ong Kommadam thủ lĩnh phiến quân phía nam người [[Lào Thơng]]. Vì các khu vực căn cứ của cộng sản chủ yếu là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số, điều này đã giúp củng cố sự hỗ trợ ở những khu vực này. Nhưng quyền lãnh đạo cộng sản vẫn nằm chắc trong tay [[Lào Lùm]].
 
Những người cộng sản ở Lào chịu sự giám sát của Đảng Cộng sản Việt Nam, và trong suốt hai mươi năm chiến tranh sau đó, Đảng Nhân dân Lào phụ thuộc vào Việt Nam về vũ khí, tài chính và đào tạo. Một số lượng lớn lực lượng Việt Nam đã chiến đấu cùng với Pathet Lào, và các "cố vấn" Việt Nam thường đi cùng các chỉ huy quân sự của Pathet Lào. Chính phủ Lào chống cộng luôn cáo buộc Pathet Lào là những con rối của Việt Nam, nhưng đây là cáo buộc không chính xác hoàn toàn. Năm 1955, một đảng cộng sản Lào riêng biệt được thành lập, Đảng Nhân dân Lào (tiền thân của [[Đảng Nhân dân Cách mạng Lào]] sau này), với Kaysone là Tổng Bí thư và Nouhak là lãnh đạo cấp cao, tất cả các thành viên của Bộ Chính trị là người Lao Lùm.
 
Những người cộng sản Lào và Việt Nam đã chiến đấu vì cùng một mục tiêu - đầu tiên là đánh đuổi người Pháp, sau đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội, và người Lào biết rằng họ không thể tự mình đạt được một trong hai mục tiêu này. Hệ tư tưởng cộng sản dạy rằng "chủ nghĩa quốc tế vô sản" là nghĩa vụ của tất cả những người cộng sản. Những người cộng sản Lào thoải mái chấp nhận sự lãnh đạo của Việt Nam như là cách nhanh nhất và thực sự duy nhất để đạt được mục tiêu của cách mạng.
Dòng 62:
Ngay cả khi họ đã lật đổ chính quyền, Pathet Lào vẫn phụ thuộc vào binh lính và cố vấn chính trị Việt Nam để giữ quyền kiểm soát đất nước. Chính phủ của họ có mối quan hệ với Việt Nam tương tự như các chính phủ Cộng sản Đông Âu với Liên Xô. Việc ủng hộ người Việt Nam khiến chính quyền hoàng gia Lào tuyên truyền tạo ra sự thù địch của đa số người Lào Lùm, những người không ưa người Việt Nam hơn người Pháp. Mãi cho đến những năm cuối của thập niên 1960, Pathet Lào mới bắt đầu nhận được sự ủng hộ ở các khu vực Lào Lùm.
==Pathet Lào tấn công==
Cuối năm 1952, với vị trí chiếm cứ ở Đông Bắc Lào ngày càng an toàn, và với sự hỗ trợ đắc lực của quân đội Việt Minh, PL đã mở một cuộc tổng tấn công nhằm chiếm tỉnh Sam Neua, cùng với các phần của Luang Prabang và Xiêng Khoảng. Sam Neua thất thủ vào ngày 13 tháng 4 năm 1953, cùng với Phong Saly. Luang Prabang bị bao vây, và cuộc tấn công được đẩy mạnh về phía nam và phía đông. Đến cuối năm, các thị trấn ThaKhek (thất thủ vào ngày 24 tháng 12) và Savannakhet bị bao vây, cũng như căn cứ trên bộ của Pháp tại Seno. Đường số 9 bị cắt, và tỉnh Attapu bị chiếm, cùng với Cao nguyên Boloven. Vào thời điểm Pháp thất bại ở [[Chiến dịch Điện Biên Phủ|Điện Biên Phủ]] vào tháng 5 năm 1954, NLINeo Lao IssaraPLPathet Lào đang kiểm soát một phần lớn đất nước Lào, và có một đội quân thiện chiến. Họ đã được [[Hiệp định Geneva]] công nhận, và RLGChính phủ Hoàng gia Lào buộc phải đồng ý tổ chức các cuộc bầu cử chung để thống nhất lại Lào (sẽ được tổ chức vào năm 1955).
===Lực lượng Pathet Lào===
Pathet Lào được hình thành dưới sự bảo trợ của Việt Minh, và do đó được tổ chức theo mô hình của Việt Minh. Pathet Lào không được trang bị vũ khí hạng nặng. Quân đội Giải phóng và Phòng vệ Lào và Pathet Lào ban đầu được trang bị vũ khí hỗn hợp từ Pháp, Nhật Bản và (có thể) của Mỹ. Nguồn cung cấp tăng dần từ Việt Minh, vì vậy các mẫu của Trung Quốc có thể đã chuyển vào cuối Chiến tranh chống Pháp. Trang phục điển hình khá giống Việt Minh - một sự pha trộn giữa quần áo dân sự châu Âu và địa phương, với các mảnh có nguồn gốc quân sự (vải dạ, v.v.). Mũ đội đầu rất có thể sẽ là một chiếc khăn trùm đầu được quấn thành dạng khăn xếp, mũ bảo hiểm đội đầu hoặc mũ lưỡi trai.
==Quân đội Hoàng gia==
Khi Pháp rút sự hiện diện quân sự của họ từ Lào, Chính phủ Hoàng gia Lào đã thành lập quân đội của mình để chống lại Pathet Lào và Việt Minh. Đây là quân đội Hoàng gia Lào (RLA) đã được đào tạo từ 4,000 người năm 1951 đến 10,000 năm 1952 và 15,000 người trong năm 1953. Năm 1954, như Pháp đã rút khỏi Lào, Quân đội Hoàng gia Lào được tăng cường với 25,000 người.
 
Quân đội Hoàng gia Lào được trang bị, được đào tạo, trang bị và sĩ quan bởi Pháp. Vũ khí của họ chủ yếu là sản xuất của Anh (bên ngoài CFEO), với chiếc mũ Bush mặc với đồng phục Anh/Khối thịnh vượng chung. Quân Lào được xếp loại là "Chasseurs", tức là bộ binh hạng nhẹ, thiết bị của họ là của các mẫu "hạng nhẹ", như là cối 60mm thay vì 81mm và pháo tự hành 0.30" thay vì 0.50". Quân đội Hoàng gia Lào có xu hướng phân tán trong các đơn vị quy mô trung đội rải rác khắp đất nước, với [[Nhóm biệt kích đường không hỗn hợp]] (GCMA) hoạt động trên mặt đất. Đối với các hoạt động chính, họ sẽ được [[Quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông]] (CFEO) củng cố, xây dựng một căn cứ không quân (như tại Seno).
==Hiệp định Geneva==
Đầu những năm 1950 chứng kiến ​​sự bất ổn liên tục trong chính phủ Lào ở Viêng Chăn. Sự đổ bộ của lực lượng Pháp, cùng với tiền viện trợ của Pháp và Mỹ, đã thúc đẩy sự bùng nổ kinh tế, kèm theo lạm phát cao, ở các thị trấn, nhưng điều này chẳng mang lại lợi ích gì cho đa số nông dân. Việc chuyển hướng ngân quỹ sang các mục đích quân sự đã làm chậm sự phát triển của các lĩnh vực như y tế và giáo dục. Chính phủ vẫn suy yếu, chia rẽ, và cũng ngày càng tham nhũng khi các chính trị gia hàng đầu tìm mọi cách để chính họ và người thân của họ kiếm lợi từ nguồn tiền nước ngoài đổ vào đất nước. Souvanna Phouma vẫn là chính trị gia phi cộng sản hàng đầu và giữ được sự tin tưởng của Nhà vua, nhưng những người theo cánh hữu, do Boun Oum Na Champassak lãnh đạo, phản đối chính sách liên minh và hòa giải của ông với Pathet Lào. Tuy nhiên, nền độc lập của Lào, ban đầu vẫn chỉ mang tính hình thức do Pháp cầm quyền.
 
Năm 1953, Lào giành được độc lập hoàn toàn từ Pháp, nhưng Pathet Lào, với sự viện trợ của Việt Nam, đã giành được quyền kiểm soát trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, mặc dù dân cư thưa thớt, ở các khu vực miền núi dọc biên giới Việt Nam và cả một số khu vực ở phía nam. Những nơi mà sự cai trị từ Viêng Chăn chưa bao giờ phổ biến. Sự suy yếu của Pháp khiến chính phủ Hoàng gia Lào dễ bị tổn thương, và lực lượng Pathet Lào và Việt Nam tiến đến trong vòng 30 km từ Luang Phrabang. Quân đội Pathet Lào cùng với khoảng 40,000 quân Việt Minh do Đại tướng [[Võ Nguyên Giáp]] chỉ huy đã chiếm đóng các vùng phía bắc Lào bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 năm 1953.
 
Khi người Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến ở Việt Nam, sự phản đối chính trị ở Pháp đối với cuộc chiến tranh Đông Dương ngày càng mạnh mẽ. Vào tháng 5 năm 1954, quân Pháp đã phải hứng chịu một thất bại ở Điện Biên Phủ miền Bắc Việt Nam, một thảm họa chính trị kèm với hậu quả lớn về mặt quân sự. Chính phủ Pháp từ chức và [[Pierre Mendès France|Pierre Mendès-France]] lên làm Thủ tướng với chủ trương rút khỏi Đông Dương. Một hội nghị quốc tế về Đông Dương đã được triệu tập tại Genève, và hội nghị diễn ra ngay sau khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ.
 
Đồng thời cũng có một hội nghị riêng rẽ giữa Lào và Pháp. Nghị trình Lào là một vấn đề thứ yếu tại Geneva, diễn ra từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 21 tháng 7 năm 1954, và các quyết định về Lào được quyết định bởi việc dàn xếp sau hội nghị Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Phuy Sananikone đại diện cho chính phủ Lào và Nouhak đại diện cho Pathet Lào (như một phần của phái đoàn cộng sản Việt Nam), nhưng họ chỉ là quan sát viên do các cường quốc quyết định kết quả. Hội nghị đã được đồng ý đưa Lào trở thành một quốc gia độc lập, trung lập với một chính phủ liên minh đại diện cho tất cả các bên trong đó có Pathet Lào. Các bên đồng ý ngừng bắn vào ngày 21 tháng 7 năm 1954, và lệnh ngừng bắn có hiệu lực vào ngày 6 tháng 8 năm 1954.
 
Sau lệnh ngừng bắn là việc tất cả các lực lượng nước ngoài rút quân, giải tán quân đội Pathet Lào, thành lập chính phủ liên hiệp và bầu cử tự do. Khi tin tức về thỏa thuận này đến được với Lào, các chính trị gia chống cộng đã nổi giận dữ dội, trong đó tập trung vào Phuy vì đã đồng ý với các điều khoản này. Vào tháng 9, một băng nhóm được tài trợ bởi các phần tử cánh hữu đã cố gắng ám sát Phuy. Ông bị thương nhẹ, nhưng Bộ trưởng Quốc phòng [[Kou Voravong]] đã thiệt mạng. Kết quả là cuộc khủng hoảng buộc Souvanna Phouma phải từ chức, và [[Katay Don Sasorith]] thành lập chính phủ với tư cách là thủ tướng vào ngày 20 tháng 10 năm 1954. Theo Hiệp định Genève, Pháp đồng ý công nhận nền độc lập của Vương quốc Lào vào ngày 29 tháng 12 năm 1954.
==Sau hội nghị Geneva==
Ngày 11 tháng 8 năm 1954, Ủy ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế (ICSC-Lào I) được thành lập để giám sát thỏa thuận ngừng bắn và giám sát việc giải tán các lực lượng quân sự của Pháp và Lào. ICSC-Lào I bao gồm khoảng 500 nhân viên từ Canada, Ấn Độ và Ba Lan.