Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên (1592–1598)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại
nhầm
Thẻ: Lùi lại thủ công Đã bị lùi lại
Dòng 6:
| place=[[Triều Tiên]]
| result=Triều Tiên và Trung Quốc chiến thắng.
| combatant1=[[Triều Tiên]] dưới thời [[nhà Triều Tiên]]<br />[[Trung Quốc]] dưới thờitriều [[nhà Minh]]
| combatant2=[[Thời kỳ Azuchi-Momoyama|Nhật Bản]] dưới thời [[gia tộc Toyotomi Hideyoshi]]
| commander1='''Triều Tiên'''<br />
[[Tập tin:Coat of Arms of Joseon Korea.png|15px]][[Triều Tiên Tuyên Tổ]]<br />
[[Tập tin:Coat of Arms of Prince of Joseon.png|17px]][[Quang Hải quân]]<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Lý Thuấn Thần]] {{KIA}},<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Quyền Lật]],<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Liễu Thành Long]],<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Lý Ức Kỳ]]{{KIA}},<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Nguyên Quân (Triều Tiên)|Nguyên Quân]]{{KIA}},<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Kim Mệnh Nguyên]],<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Lý Dật (Triều Tiên)|Lý Dật]],<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Thân Lạp]]{{KIA}},<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Quách Tái Hữu]],<br />
[[Tập tin:Flag_of_the_king_of_Joseon.svg|15px]][[Kim Thời Mẫn]]{{KIA}}
 
'''Đại Minh'''<br />
[[Tập tin: Left-facing dragon pattern on Wanli Emperor's imperial robe.svg|15px]] [[Minh Thần Tông]],<br />
[[Lý Như Tùng]]{{KIA}} ''(pr.)'',<br />
[[Lý Như Bá]],<br />
Dòng 35:
[[Lưu Đinh]],<br />
[[Trần Lân (nhà Minh)|Trần Lân]]<br />
| commander2='''Nhật Bản'''<br />Lãnh đạo tối cao
<br/>'''[[Tập tin:Toyotomi mon.png|15px]] [[Toyotomi Hideyoshi]]'''
[[Toyotomi Hideyoshi]],<br />
<br />[[Tập tin:Toyotomi mon.png|15px]] [[Toyotomi Hidetsugu]]
[[Katō Kiyomasa]],<br />
<br/>'''Tướng lĩnh quân sự'''
[[Konishi Yukinaga]],<br />
<br />[[Tập tin:Toyotomi mon.png|15px]] [[Toyotomi Hidekatsu]]
[[Kuroda Nagamasa]],<br />
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest ken Katabami.svg|15px]] [[Ukita Hideie]]
[[Todo Takatora]],<br />
<br/>[[Tập tin:Hidari mitsudomoe.svg|15px]] [[Kobayakawa Hideaki|Kobayakawa Hidetoshi]]
[[Katō Yoshiaki]],<br />
<br/>[[Tập tin:Hidari mitsudomoe.svg|15px]] [[Kobayakawa Takakage]]
[[Mori Terumoto|Mōri Terumoto]],<br />
<br/>[[Tập tin:Hidari mitsudomoe.svg|15px]] [[Kobayakawa Hidekane]]
[[Ukita Hideie]],<br />
<br/>[[Tập tin:Alex K Hiroshima Mori (color).svg|15px]] [[Mōri Terumoto]]
[[Kuki Yoshitaka]],<br />
<br/>[[Tập tin:Alex K Hiroshima Mori (color).svg|15px]] [[Mōri Hidemoto]]
[[So Yoshitoshi]],<br />
<br/>[[Tập tin:Alex K Hiroshima Mori (color).svg|15px]] [[Mōri Yoshimasa]]
[[Kobayakawa Takakage]],<br />
<br/>[[Tập tin:Alex K Hiroshima Mori (color).svg|15px]] [[Mōri Yoshinari]]
[[Wakizaka Yasuharu]],<br />
<br/>[[Tập tin:Alex K Hiroshima Mori (color).svg|15px]] [[Mōri Katsunobu]]
[[Shimazu Yoshihiro]],<br />
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Uesugi Sasa.svg|15px]] [[Uesugi Kagekatsu]]
[[Kurushima Michifusa]]{{KIA}}<br />
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Nabesima Gyouyou.svg|15px]] [[Nabeshima Naoshige]]
<br/>[[Tập tin:Kuyo.svg|15px]] [[Hosokawa Tadaoki]]
<br/>[[Tập tin:Kikyo.svg|15px]] [[Katō Kiyomasa]]
<br/>[[Tập tin:Kikyo.svg|15px]] [[Katō Yoshiaki]]
<br/>[[Tập tin:Maru juji.svg|15px]] [[Shimazu Yoshihiro]]
<br/>[[Tập tin:Maru juji.svg|15px]] [[Shimazu Toyohisa]]
<br/>[[Tập tin:Maru juji.svg|15px]] [[Shimazu Tadatsune]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Maru ni Hidari Mannji.svg|15px]] [[Hachisuka Iemasa]]
<br/>[[Tập tin:Hanakurusu.gif|15px]] [[Konishi Yukinaga]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest daki Gyouyou.svg|15px]] [[Ōtomo Yoshimasa]]
<br/>[[Tập tin:Gion Mamori.svg|15px]] [[Tachibana Muneshige]]
<br/>[[Tập tin:Gion Mamori.svg|15px]] [[Tachibana Naotsugu]]
<br/>[[Tập tin:So clan mon2.svg|15px]] [[Tsukushi Hirokado]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Takeda Hisi.svg|15px]] [[Ankokuji Ekei]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Ikoma kuruma.svg|15px]] [[Ikoma Chikamasa]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Ikoma kuruma.svg|15px]] [[Ikoma Kazumasa]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Kuroda Fuji tomoe.svg|15px]] [[Kuroda Nagamasa]]
<br/>[[Tập tin:So clan mon.svg|15px]] [[Sō Yoshitoshi]]
<br/>[[Tập tin:Alex K Hiroshima Fukushima kamon.svg|15px]] [[Fukushima Masanori]]
<br/>[[Tập tin:Kuyo.svg|15px]] [[Toda Katsutaka]]
<br/>[[Tập tin:Nanatsukatabami.svg|15px]] [[Chōsokabe Motochika]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Matura mitu Hosi.svg|15px]] [[Matsura Shigenobu]]
<br/>[[Tập tin:Japanese crest Tuta.svg|15px]] [[Tōdō Takatora]]
<br/>[[Tập tin:Murakami crest.jpg|15px]] [[Kurushima Michifusa]]{{KIA}}
<br/>[[Tập tin:Murakami crest.jpg|15px]] [[:ja:得居通幸|Kurushima Michiyuki]]{{KIA}}
<br/>[[Tập tin:Japanese crest Arima Mokkou.svg|15px]] [[Arima Harunobu]]
<br/>[[Tập tin:Mon Akizuki.jpg|15px]] [[Takahashi Mototane]]
<br/>[[Tập tin:Mon Akizuki.jpg|15px]] [[Akizuki Tanenaga]]
<br/>[[Tập tin:Iori-mokko.jpg|15px]] [[Itō Suketaka]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Shichiyoumon.svg|15px]] [[Kuki Yoshitaka]]
<br/>[[Tập tin:Wachigai.svg|15px]] [[Wakisaka Yasuharu]]
<br/>[[Tập tin:Japanese crest Arima Mokkou.svg|15px]] [[Ōmura Yoshiaki]]
<br/>[[Tập tin:Japanese crest Sagara Umebachi.svg|15px]] [[Sagara Yorifusa]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest soroi Futatu Hiki.svg|15px]] [[Gotō Sumiharu]]
<br/>[[Tập tin:Mukaichou.jpg|15px]] [[Ōtani Yoshitsugu]]
<br/>[[Tập tin:Japanese Crest Kuroda Fuji tomoe.svg|15px]] [[:ja:長谷川秀一|Hasegawa Hidekazu]]
<br/>[[Tập tin:Ikeda prince de Bizen.svg|15px]] [[Ikeda Hideo]]
<br/>[[Tập tin:蒲生対い鶴.png|15px]] [[Gamō Ujisato]]
<br/>[[Mitaira Saemon]]
<br/>[[Tập tin:Maruni-gosano-kiri.jpg|15px]] [[:ja:大矢野種基|Ōyano Tanemoto]]{{KIA}}
<br/>[[Tập tin:大一大万大吉.svg|15px]] [[Ishida Mitsunari]]
<br/>[[Hình:Alex K Hiroshima Asano (color).svg|15px]] [[Asano Nagamasa]]
<br/>[[Hình:Alex K Hiroshima Asano (color).svg|15px]] [[Asano Yoshinaga]]
<br/>[[Mashita Nagamori]]
<br/>[[Nakagawa Hidenari]]
<br/>[[Nakagawa Hidemasa]]
| strength1='''Triều Tiên'''<br />
84.500 (lúc đầu) - 192.000 quân (tổng cộng)<ref name ="thoughtco">[https://web.archive.org/web/20200714204302/https://www.thoughtco.com/the-imjin-war-1592-98-4016849 The Imjin War, 1592-98]</ref> (bao gồm ít nhất 22.600 dân quân kháng chiến Triều Tiên)<ref name ="thoughtco"/><br/>300 tàu hải quân{{sfn|Hawley|2005|p=148}}
84.500 quân Triều Tiên,<br />
(lúc đầu)<br />
Ít nhất 22.600 người tình nguyện và quân nổi dậy Triều Tiên
 
'''Trung Quốc'''<br />
Hàng 61 ⟶ 105:
100.000<ref name="turnbull39">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 217.</ref>
| strength2='''Nhật Bản'''<br />
Lần thứ nhất (1592–1593)<br /> 160.000 (ban đầu), - 235.000 (tổng cộng)<br />700 tàu vận tải, 300 tàu chiến
 
Lần thứ hai (1597–1598)<br />
Khoảng 141.900<br />1.000 tàu hải quân (một số được trang bị đại bác)
Khoảng 140.000<br />
| casualties1= '''Triều Tiên:''' khoảng 300260.000''' chết hoặc bị thương, 20.000 - 100.000 bị bắt, 157 tàu bị đánh chìm
 
'''Trung Quốc:''' khoảng 3036.000'''<ref name="turnbull41">chết{{sfn|Turnbull, Stephen. |2002, các trang 221.</ref><ref name|p="turnbull43">222}}{{sfn|Turnbull, Stephen. |2002, các trang |p=230.</ref> }}<br />
| casualties2= '''Nhật Bản:''' khoảngít 130nhất 100.000''' chết, ít nhất 460 tàu bị đánh chìm
| casualties3=
'''Tổng số quân + dân''' 1.000.000 (khoảng 20% dân số Triều Tiên khi đó)
| notes=
}}
Hàng 102 ⟶ 147:
| last =
| first =
| coauthors =
| title = Today in Korean History
| work =
Hàng 109 ⟶ 155:
| date = [[ngày 28 tháng 11 năm 2006]]
| url = http://find.galegroup.com/itx/infomark.do?&contentSet=IAC-Documents&type=retrieve&tabID=T004&prodId=ITOF&docId=A155053120&source=gale&srcprod=ITOF&userGroupName=tel_middleten&version=1.0
| access-dateaccessdate = ngày 24 tháng 3 năm 2007 }}</ref> Người Nhật gọi cuộc chiến là "Chiến dịch Triều Tiên"; còn người Trung Quốc gọi là "Đông chinh" hoặc "Kháng Nhật viện Triều" (chi viện Triền Tiên kháng chiến chống Nhật).<ref name="barry1-2">Strauss, Barry. các trang 1-2</ref>
 
== Tên gọi ==
Hàng 120 ⟶ 166:
| first =
| authorlink =
| coauthors =
| title = Early Joseon Period
| work = History
Hàng 127 ⟶ 174:
| format =
| doi =
| access-dateaccessdate = ngày 30 tháng 3 năm 2007 }}</ref> Gánh nặng tài chính lên [[Trung Quốc]] ảnh hưởng bất lợi đến khả năng quân sự và góp phần vào sự sụp đổ của [[nhà Minh]] và sự trỗi dậy của [[nhà Thanh]].<ref name="barry21">Strauss, Barry. các trang 21</ref> Tuy vậy, hệ thống triều cống lấy Trung Quốc làm trung tâm mà nhà Minh đã bảo vệ được nhà Thanh phục hồi, và quan hệ thương mại bình thường giữa Triều Tiên và Nhật Bản sau đó cũng tiếp tục.<ref name="SWOPE758-9">Swope. 2002. các trang 758-9</ref>
 
== Bối cảnh ==
Hàng 149 ⟶ 196:
| first = Richard
| authorlink = Richard Hooker
| coauthors =
| title = Toyotomi Hideyoshi (1536–1598)
| work =
| publisher = [[Washington State University]]
| date = (C) [[1996]], last updated [[1999]]
| url = http://www.wsu.edu/~dee/TOKJAPAN/TOYOTOMI.HTM
| format =
| doi =
| accessdate = ngày 12 tháng 5 năm 2007 }}</ref> và giảm nhẹ mối đe dọa có thể việc mất trật tự xã hội và nổi loạn của một số lượng lớn [[samurai]] và binh lính được giải ngũ.<ref name="rebel">{{chú thích
| access-date = ngày 12 tháng 5 năm 2007
| archive-date = ngày 20 tháng 10 năm 2008 | archive-url = https://web.archive.org/web/20081020061857/http://www.wsu.edu/~dee/TOKJAPAN/TOYOTOMI.HTM
|url-status=dead
}}</ref> và giảm nhẹ mối đe dọa có thể việc mất trật tự xã hội và nổi loạn của một số lượng lớn [[samurai]] và binh lính được giải ngũ.<ref name="rebel">{{chú thích
| last = Coyner
| first = Tom
Hàng 177 ⟶ 222:
| first =
| authorlink =
| coauthors =
| title = Azuchi-Momoyama Period (1573–1603)
| work =
Hàng 184 ⟶ 230:
| format =
| doi =
| access-dateaccessdate = ngày 12 tháng 5 năm 2007 }}</ref> cuối cùng đã mang đến lần thống nhất thứ hai của nước Nhật,<ref name="UHK">{{chú thích web
| authorlinklast = Stanley
| first = Thomas A.
|authors=Thomas A. Stanley & R.T.A. Irving| title = Toyotomi Hideyoshi
| authorlink =
| coauthors = R.T.A. Irving
| title = Toyotomi Hideyoshi
| work = Nakasendo Highway: A Journey to the Heart of Japan
| publisher = [[University of Hong Kong]]
| date = (C) 1996, revised [[ngày 14 tháng 9 năm 2001]]
| url = http://www.hku.hk/history/nakasendo/
| format =
| doi =
| accessdate = ngày 12 tháng 5 năm 2007 }}</ref> và Hideyoshi bắt đầu chuẩn bị cho cuộc chiến kế tiếp. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1591, các daimyo Kyushu và đội ngũ lao động của mình xây dựng thành tại [[Nagoya, Saga|Nagoya]] (ngày nay là [[Karatsu, Saga|Karatsu]]) làm trung tâm cơ động của đội quân xâm lược.<ref name="Edward37">Rockstein, Edward D., Ph.D. các trang 37</ref>
| access-date = ngày 12 tháng 5 năm 2007
| archive-date = ngày 7 tháng 4 năm 2008 | archive-url = https://web.archive.org/web/20080407184944/http://www.hku.hk/history/nakasendo/
|url-status=dead
}}</ref> và Hideyoshi bắt đầu chuẩn bị cho cuộc chiến kế tiếp. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1591, các daimyo Kyushu và đội ngũ lao động của mình xây dựng thành tại [[Nagoya, Saga|Nagoya]] (ngày nay là [[Karatsu, Saga|Karatsu]]) làm trung tâm cơ động của đội quân xâm lược.<ref name="Edward37">Rockstein, Edward D., Ph.D. các trang 37</ref>
 
Hideyoshi lên kế hoạch cho một cuộc chiến có thể xảy ra với Triều Tiên từ lâu trước khi thống nhất Nhật Bản, và chuẩn bị trên nhiều mặt. Ngay từ năm 1578, Hideyoshi, khi đó chiến đấu dưới trướng Nobunaga chống lại [[Mori Terumoto|Mōri Terumoto]] vì quyền kiểm soát vùng [[Chūgoku]] của Nhật Bản, thông báo với Terumoto kế hoạch xâm lược Trung Quốc của Nobunaga.<ref name="Edward23">Rockstein, Edward D., Ph.D. các trang 23</ref> Năm 1592, ông tự mình gửi một bức thư đến Philippines đòi cống phẩm từ vị toàn quyền và nói rõ rằng Nhật Bản đã nhận triều cống từ Triều Tiên (là một sự hiểu lầm, như sẽ giải thích ở phía dưới) và [[Vương quốc Lưu Cầu|Ryukyu]].<ref name="Edward24">Rockstein, Edward D., Ph.D. các trang 24</ref>
 
Với chuẩn bị quân sự, việc đóng gần 2.000 thuyền có lẽ đã bắt đầu từ năm 1586.<ref name="Edward38">Rockstein, Edward D., Ph.D. các trang 38</ref> Để ước lượng sức mạnh quân đội Triều Tiên, Hideyoshi cử một hạm đội đột kích gồm 26 thuyền đến bờ biển phía Nam Triều Tiên năm 1587, và ông kết luận rằng người Triều Tiên chỉ là lũ bất tài.<ref name="SWOPE21">Swope. 2005. các trang 21.</ref> Về phương diện ngoại giao, Hideyoshi bắt đầu thiết lập quan hệ bạn hữu với Trung Quốc từ lâu trước khi hoàn thành việc thống nhất Nhật Bản và giúp canh phòng tuyến hải thương chống lại ''wakō.'' ([[Oa khấu]])<ref name="japan101">{{chú thích web
| last =
| first =
| authorlink =
| coauthors =
| title = Toyotomi Hideyoshi - Japanese general who united Japan
| work =
Hàng 211 ⟶ 258:
| format =
| doi =
| access-dateaccessdate = ngày 12 tháng 5 năm 2007 }}</ref>
 
==== Thái độ ngoại giao giữa Nhật Bản và Triều Tiên ====
Hàng 222 ⟶ 269:
| date =
| id =
| access-dateaccessdate = ngày 18 tháng 5 năm 2007 }} [http://enc.daum.net/dic100/viewContents.do?&m=all&articleID=b12s0368b Daum.net]</ref> để tái lập quan hệ ngoại giao giữa Triều Tiên và Nhật Bản (đổ vỡ vì các cuộc tập kích quấy nhiễu của cướp biển Nhật Bản năm 1555)<ref name="tiger12JIMWC">{{chú thích web
| last = Caraway
| first = Bill
| authorlink =
| coauthors =
| title = Ch 12 - Japanese invasions: More Worlds to Conquer
| work = KOREA IN THE EYE OF THE TIGER
Hàng 233 ⟶ 281:
| format =
| doi =
| access-dateaccessdate = ngày 4 tháng 7 năm 2007 }}</ref>, mà Hideyoshi hy vọng rằng sẽ sử dụng nó làm bàn đạp để thuyết phục nhà Triều Tiên về phe Nhật Bản trong cuộc chiến chống Trung Quốc.<ref name="Jones240">Jones, Geo H., Vol. 23 No. 5, các trang 240</ref> Yasuhiro, với tiểu sử là một chiến binh và thái độ khinh mạn với các quan lại và phong tục Triều Tiên, mà ông coi như đàn bà, không thể có được lời hứa về một sứ đoàn tương lai từ Triều Tiên.<ref name="Jones240-1">Jones, Geo H., Vol. 23 No. 5, các trang 240-1</ref> Khoảng tháng 5 năm 1589, sứ đoàn thứ hai của Hideyoshi, bao gồm cả Sō Yoshitoshi (hay Yoshitomo),<ref name="turnbull34">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 34.</ref> Gensho và Tsuginobu đến Triều Tiên và có được lời hứa về một sứ đoàn Triều Tiên đến Nhật Bản để đổi lấy quân nổi loạn Triều Tiên trốn chạy đến Nhật.<ref name="Jones240-1" /> Thực ra, năm 1587 Hideyoshi đã ra lệnh cho Sō Yoshinori, cha của Yoshitoshi và là lãnh chúa đại danh của đảo Đối Mã, gửi cho Triều Tiên tối hậu thư phục tùng nước Nhật và tham gia vào cuộc xâm lăng Trung Quốc, hay chiến tranh với Nhật Bản. Tuy nhiên, vì Đối Mã thu lợi từ vị trí thương mại đặc biệt, là trạm kiểm soát duy nhất đến Triều Tiên cho mọi tàu thuyền Nhật Bản và được Triều Tiên cho phép buôn bán bằng 50 tàu của mình,<ref name="turnbull28">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 28.</ref> đại danh Sō trì hoãn cuộc thương thảo gần 2 năm.<ref name="turnbull34" /> Thậm chí khi Hideyoshi hồi phục lại yêu cầu của mình, Sō Yoshitoshi giảm chuyến thăm đến triều nhà Triều Tiên thành một chiến dịch để củng cố mối quan hệ giữa 2 nước. Khi gần hết thời gian đi sứ, Yoshitoshi tặng cho Triều Tiên Tuyên Tổ một đôi công và một khẩu súng hỏa mai – hỏa khí tiên tiến đầu tiên ở Triều Tiên.<ref name="Jones242">Jones, Geo H., Vol. 23 No. 5, các trang 242</ref> [[Liễu Thành Long]], một quan văn cao cấp, cho rằng quân đội nên sản xuất [[súng hỏa mai]], nhưng triều đình nhà Triều Tiên không làm nổi.<ref name="googuk">{{chú thích web
| last =
| first =
| authorlink =
| coauthors =
| title = 구국(救國)의 영재상, 서애 유성룡
| work = 경북혁신인물
| publisher = Gyeong-sang-buk-do Province
| date =
| url = http://innovation.gb.go.kr/room/rev_people/mnu7_1185779926649.swf
| format =
| doi =
| accessdate = ngày 7 tháng 10 năm 2007 }}</ref> Việc thiếu hứng thú và đánh giá thấp khả năng của súng hỏa mai cuối cùng dẫn đến sự thiệt hại nặng nề của quân đội Triều Tiên đầu cuộc chiến.
| access-date = ngày 7 tháng 10 năm 2007
}}{{Liên kết hỏng|date = ngày 11 tháng 2 năm 2021 |bot=InternetArchiveBot }}</ref> Việc thiếu hứng thú và đánh giá thấp khả năng của súng hỏa mai cuối cùng dẫn đến sự thiệt hại nặng nề của quân đội Triều Tiên đầu cuộc chiến.
 
Tháng 4 năm 1590, sứ thần Triều Tiên bao gồm Hwang Yunkil, Kim Sŏngil và những người khác<ref name="Joongang112">Jang, Pyun-soon. các trang 112</ref> đến [[Kyōto (thành phố)|Kyoto]], ở đây họ đợi trong 2 tháng trong khi Hideyoshi kết thúc chiến dịch chống lại Odawara và gia tộc Hōjō.<ref name="turnbull36">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 36.</ref> Khi ông trở về, họ trao đổi quà tặng theo nghi lễ và gửi bức thư của vua Tuyên Tổ đến Hideyoshi.<ref name="turnbull36" /> Hideyoshi đoán rằng người Triều Tiên đến để thể hiện lòng tôn kính như một chư hầu của nước Nhật, nhưng người Triều Tiên vẫn coi người Nhật như một đứa em như họ đã làm vậy hàng ngàn năm nay. Vì lý do đó, các sứ thần không nhận được sự đối xử trang trọng vì khi thực hiện các nhiệm vụ ngoại giao; cuối cùng, sứ thần Triều Tiên yêu cầu Hideyoshi viết lời đáp từ với Vua Triều Tiên, và họ phải đợi nó ở cảng Sakai đến 20 ngày.<ref name="turnbull36-37">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 36-37.</ref> Bức thư, được phác thảo lại theo yêu cầu của các sứ thần vì nó quá khiếm nhã, yêu cầu Triều Tiên thần phục Nhật Bản và tham dự vào cuộc chiến chống Trung Quốc.<ref name="Jones242" /> Khi các sứ thần trở về, triều đình Triều Tiên thảo luận nghiêm túc về lời mời của nước Nhật;<ref name="Jones242-3">Jones, Geo H., Vol. 23 No. 5, các trang 242-3</ref> trong khi [[Hwang Yun-kil]] báo cáo với triều đình Triều Tiên các ước lượng đối nghịch nhau về thực lực và ý định quân sự của Nhật Bản và nhấn mạnh rằng, chiến tranh đang tới, Kim Sŏngil khẳng định rằng lời nói của Hideyoshi chỉ là thứ bịp bợm. Hơn nữa, phần lớn các ước tính đều cho thấy người Nhật không đủ khả năng. Một số người, bao gồm vua Tuyên Tổ, cho rằng nhà Minh nên được thông báo về thái độ xử sự với nước Nhật, vì nếu không làm như vậy, nhà Minh sẽ nghi ngờ về lòng trung thành của Triều Tiên, như triều đình Triều Tiên cuối cùng kết luận rằng phải đợi thêm nữa cho đến khi các diễn biến và hành động thích đáng trở nên chắc chắn.<ref name="turnbull38">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 38.</ref>
Hàng 269 ⟶ 317:
| last = Caraway
| first = Bill
| authorlink =
| coauthors =
| title = Ch 12 - Japanese invasions: More Worlds to Conquer
| work = KOREA IN THE EYE OF THE TIGER
| publisher = Korea History Project
| date =
| url = http://koreanhistoryproject.org/Ket/C12/E1202.htm
| format =
| doi =
| access-dateaccessdate = ngày 4 tháng 7 năm 2007 }}</ref>
| archive-date = ngày 17 tháng 9 năm 2008 | archive-url = https://web.archive.org/web/20080917183025/http://www.koreanhistoryproject.org/Ket/C12/E1202.htm
|url-status=dead
}}</ref>
 
==== Các vấn đề với chính sách phòng thủ của Triều Tiên ====
Hàng 292 ⟶ 338:
Hideyoshi huy động quân đội của mình ở [[Thành Nagoya (Tỉnh Hizen)|thành Nagoya]] trên đảo [[Kyushu|Kyūshū]] (ngày nay là [[Karatsu, Saga|Karatsu]]), một tòa thành mới xây chỉ với mục đích làm nơi đồn trú của lực lượng xâm lược và dự bị.<ref name="turnbull40">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 40.</ref> Cuộc xâm lược lần thứ nhất bao gồm chín cánh quân với tổng số 158.000 lính, trong đó có 21.500 quân dự bị đóng tại hai đảo [[Tsushima (đảo)|Đối Mã]] và [[Iki, Nagasaki|Iki]].<ref name="turnbull42">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 42.</ref>
 
MặtVề khác,phía Triều Tiên, họ chỉ chỉ duy trì vài đơn vị quân đội nhỏ và không có quân dã chiến, và việc phòng thủ của họ dựa chủ yếu vào việc huy động dân binh trong tình huống khẩn cấp.<ref name="tiger12JIMWTC" /> Trong cuộc xâm lược đầu tiên, Triều Tiên từ đầu đến cuối chỉ dùng 84.500 quân chính quy, được sự trợ giúp của 22.500 quân tình nguyện không chính quy khác.<ref name="turnbull109">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 109.</ref> Quân tiếp viện Trung Quốc trong chiến tranh không thể tạo ra sự khác biệt về số lượng vì họ không bao giờ duy trì quá 60.000 lính ở Triều Tiên ở bất kỳ thời điểm của cuộc chiến,<ref name="SWOPE186" /> trong khi người Nhật dùng tổng cộng 500.000 lính trong toàn bộ chiến tranh.<ref name="barry3" />
 
Sớm nhất là năm [[1582]], học giả Triều Tiên nổi tiếng I Yul-gok đề xuất với nhà Triều Tiên thực hiện việc mở rộng quân đội toàn quốc lên đến 100.000 lính, bao gồm chế độ cưỡng bách tòng quân với nô lệ và con của thiếp, sau khi quân đội ở phía Bắc đại bại trước cuộc tấn công của người [[Nữ Chân]].<ref name="turnbull15" /> Tuy vậy, vì là người của phe Tây Nhân, phe Đông Nhân khi ấy đang thống trị từ chối lời đề nghị này.<ref name="turnbull15" /> Lời đề nghị năm [[1588]] của một thống đốc cấp tỉnh về vũ trang cho 20 hòn đảo ở bờ biển phía Nam bán đảo và lời tấu năm [[1590]] về củng cố các đảo xung quanh thành phố cảng [[Busan|Phủ Sơn]] cũng nhận được kết quả tương tự.<ref name="turnbull15" /> Thậm chí khi cuộc xâm lược của người Nhật ngày càng có nguy cơ xảy ra và Liễu Thành Long thay đổi ý kiến về vấn đề này, những lời phản đối hoàn toàn chỉ vì lý do đấu đá chính trị vô hiệu hóa tất cả các ý kiến chủ trương mở rộng quân đội.<ref name="turnbull15" /> Cho đến năm 1592, người Triều Tiên bị thiếu quân số.
 
==== Vũ khí ====
[[Tập tin:Joseoncannon1.JPG|nhỏ|200px|Súng thần công như cái này được sử dụng rộng rãi trong hải quân Triều Tiên.]]
Kể từ khi được các thương gia Bồ Đào Nha du nhập vào đảo [[Tanegashima]] năm 1543,<ref name="hawley3-7">Hawley, Samuel. các trang 3–7.</ref> [[súng hỏa mai]] được sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản.<ref name="hawley6">Hawley, Samuel. các trang 6.</ref> Cả Triều Tiên và Trung Quốc đều đang sử dụng hỏa khí tương tự như súng hỏa mai Bồ Đào Nha, nhưng là loại cũ hơn. Những hỏa khí cũ này cuối cùng không được dùng đến ở Triều Tiên, các vũ khí dùng thuốc súng chủ yếu của phía Triều Tiên là pháo binh và máy phóng tên bằng thuốc súng (Hwa-cha).<ref name="SWOPE25">Swope. 2005. các trang 25.</ref> Khi các nhà ngoại giao Nhật Bản tặng Triều Tiên súng hỏa mai làm quà, quan văn Triều Tiên Liễu Thành Long chủ trương sử dụng loại vũ khí mới này nhưng không thành công và nhà Triều Tiên không nhận ra tiềm năng của nó.<ref name="turnbull36" />
 
Hàng 315 ⟶ 361:
| last = Caraway
| first = Bill
| authorlink =
| coauthors =
| title = Ch 12 - Japanese invasions: Song of the Great Peace
| work = KOREA IN THE EYE OF THE TIGER
| publisher = Korea History Project
| date =
| url = http://koreanhistoryproject.org/Ket/C12/E1201.htm
| format =
| doi =
| access-dateaccessdate = ngày 4 tháng 7 năm 2007 }}</ref>
| archive-date = ngày 29 tháng 2 năm 2008 | archive-url = https://web.archive.org/web/20080229100252/http://www.koreanhistoryproject.org/Ket/C12/E1201.htm
|url-status=dead
}}</ref>
 
==== Sức mạnh hải quân ====
Hàng 406 ⟶ 450:
|-
|
| [[Takahashi Mototane]] [[:ja:高橋元種|(ja)]], [[Akizuki Tanenaga]], [[Itō Suketaka]] [[:ja:伊東祐兵|(ja)]], [[Shimazu Tadatoyo]]<ref>[http://www.netlaputa.ne.jp/~kitsch/hyuuga/itonenpyou.htm dựa trên lưu trữ của ] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20061109152411/http://www.netlaputa.ne.jp/~kitsch/hyuuga/itonenpyou.htm |date = ngày 9 tháng 11 năm 2006}}[[gia tộc Shimazu]]</ref>
| 2.000
| 14.000
Hàng 495 ⟶ 539:
{{chính|Trận vây hãm Phủ San|Trận trấn Đa Đại}}
 
Ngày [[23 tháng 5]], [[1592]], Cánh quân thứ nhất gồm 7.000 lính do [[Konishi Yukinaga]] chỉ huy<ref name="turnbull47">Turnbull, Stephen. 2002, p. 47.</ref> rời Đối Mã vào buổi sáng, và đến thành phố cảng [[Busan|Phủ Sơn]] vào buổi tối.<ref name="turnbull48">Turnbull, Stephen. 2002, p. 48.</ref> Thám báo của hải quân Triều Tiên đã phát hiện được hạm đội Nhật Bản, nhưng [[Nguyên Quân]] (元均), Thủy quân Hữu đạo của [[Gyeongsang|Khánh Thượng]], tưởng lầm hạm đội đó là thuyền buôn.<ref name="turnbull83-4">Turnbull, Stephen. 2002, p. 83-4.</ref> Báo cáo sau đó về sự xuất hiện của thêm 100 tàu Nhật nữa làm tăng mối nghi ngờ của ông, nhưng vị tướng này không ra lệnh gì.<ref name="turnbull83-4" />

Sō Yoshitoshi xuống bờ biển Phủ Sơn một mình để yêu cầu lần cuối với người Triều Tiên để đoàn tàu Nhật đến Trung Quốc một cách an toàn; người Triều Tiên từ chối, và Sō Yoshitoshi [[Cuộc vây hãm Phủ San|bao vây thành phố]] trong khi Konishi Yukinaga [[Trận trấn Đa Đại|tấn công trấn Đa Đại gần đó]] sáng hôm sau.<ref name="turnbull48" /> Ghi chép của Nhật Bản khẳng định rằng trận chiến này là một sự hủy diệt hoàn toàn với người Triều Tiên (một tài liệu khẳng định có 8.500 quân bị giết, trong khi sách khác nói rằng lên đến 30.000), trong khi ghi chép của Triều Tiên khẳng định người Nhật thiệt hại nặng trước khi chiếm được thành phố.<ref name="turnbull50-1">Turnbull, Stephen. 2002, p. 50-1.</ref>
 
Theo ghi chép của Triều Tiên, Chỉ huy ở Phủ Sơn là tướng [[Chong Pal]] đã chỉ huy quân của mình và hét lớn: ''“Ta ra lệnh cho các ngươi chiến đấu và hy sinh một cách thật anh dũng! Kẻ nào lùi bước, đích thân ta sẽ lấy đầu kẻ đó!”''. Cuộc chiến diễn ra ác liệt nhưng nhanh chóng kết thúc. Tại đây, người Triều Tiên lần đầu tiên được nếm trải sức mạnh của [[súng hỏa mai]]. Lính thủ thành lần lượt ngã quỵ trước những viên đạn chì tròn, được bắn ra như mưa bởi quân Nhật. Chính tướng Chong Pal cũng tử trận, và người vợ lẽ mới 18 tuổi của ông đã tuẫn tiết ngay bên cạnh chồng mình.
 
Tới 9 giờ sáng thì quân Triều Tiên thất thủ. Khi quân Nhật tràn vào thành, Biên niên sử Samurai của [[Yoshino Jingozaemon]] ghi lại: ''“Chúng tôi bắt hết những người đang chạy loạn khắp nơi và cả những người cố gắng trốn trong khe vách giữa các căn nhà. Những người không tìm được chỗ trốn thì chạy tới cổng phía đông, họ nắm tay nhau tới chỗ chúng tôi và nói tiếng Trung: ‘Mano! Mano!’, như thể đang cầu xin sự khoan dung. Không màng tới điều này, quân của chúng tôi lao tới tàn sát họ như để hiến tế máu cho thần chiến tranh vậy…”''.
 
Trong những ngày sau đó, liên tiếp hai đơn vị bổ sung cập bến Phủ Sơn: Kato Kiyomasa với 22.800 quân; Kuroda Nagamasa với 11.000 quân. Tướng Konishi, với đội đầu tiên tới Pusan của mình hào hứng tiến thẳng về kinh đô ở Seoul, lộ trình hướng vào trung tâm bán đảo.
 
====[[Dongnae, Busan|Đông Lai]]====
Hàng 509 ⟶ 561:
 
=== Triều Tiên phản kích ===
Khi nhận được tin về cuộc tấn công của người Nhật, triều đình Triều Tiên bổ nhiệm Tướng [[Lý Dật]] (李鎰) làm tướng trấn giữ biên giới, như chính sách đã định.<ref name="turnbull53">Turnbull, Stephen. 2002, p. 53.</ref> Lý Dật tiến đến Myongyong, gần đầu con đèo chiến lược quan trọng Choryong để tập hợp quân đội, nhưng ông phải đi xa hơn về phía Nam để gặp được đội quân tập hợp tại thành [[Daegu|Đại Khâu]].<ref name="turnbull53-4">Turnbull, Stephen. 2002, p. 53-4.</ref> Ở đó, Lý Dật lệnh cho toàn quân lùi về Thượng Châu, trừ những người sống sót sau trận Đông Lai làm đạo quân hập tập tại đèo Choryong.<ref name="turnbull53-4" />
 
==== Trận Thượng Châu ====
Hàng 522 ⟶ 574:
| date =
| id =
| access-dateaccessdate = ngày 24 tháng 7 năm 2007 }}</ref> Lý Dật triển khai gần 1.000 quân trên hai con đồi nhỏ để đương đầu với cánh quân thứ nhất của Nhật.<ref name="turnbull57-8">Turnbull, Stephen. 2002, p. 57-8.</ref> Đoán rằng khói bốc lên là từ những tòa nhà bốc cháy gần quân Nhật, Lý Dật cử một võ quan đi trinh thám; tuy vậy, khi đến gần cầu, người này bị lính hỏa mai của quân Nhật phục kích từ bên dưới cầu, và bị chặt đầu.<ref name="turnbull57-8" /> Quân Triều Tiên, thấy viên sĩ quan tử trận mất sĩ khí nghiêm trọng.<ref name="turnbull57-8" /> Ngay sau đó, người Nhật khởi đầu [[Trận Thượng Châu|trận đánh]] bằng một loạt súng hỏa mai; người Triều Tiên đáp lại bằng cung tên, nhưng không bắn tới được mục tiêu.<ref name="turnbull57-8" /> Quân Nhật, đã được chia thành ba đường, tấn công hàng ngũ quân Triều Tiên từ cả chính diện và hai cánh; trận đánh kết thúc với sụ rút lui của Lý Dật và quân Triều Tiên thương vong 700 người.<ref name="turnbull57-8" />
 
==== Trận Trung Châu ====
Hàng 530 ⟶ 582:
| last =
| first =
| coauthors =
| title = 한니발의 背水陣, 김정일의 배수진: '''부하의 ''''''마음을 ''''''얻지 ''''''못한 ''''''배수진은 ''''''死地가 ''''''된다'''
| work =
Hàng 537 ⟶ 590:
| date = [[ngày 18 tháng 10 năm 2006]]
| url = http://www.independent.co.kr/news_01/n_view.html?id=16165&kind=menu_code&keys=5&search=&listpage=n_list.html
| access-dateaccessdate = ngày 25 tháng 7 năm 2007 }}</ref> ông thấy cần phải chặn quân mình lại trong một vùng hình [[tam giác]] tạo thành bởi sự hợp lưu giữa hai con sông [[sông Tancheon|Thán Xuyên]] và [[sông Hán|Hán]] theo hình chữ "Y".<ref name="turnbull59-60" /> Tuy vậy, cánh đồng này có nhiều cánh đồng trồng lúa ngập nước, và không thích hợp cho kỵ binh.<ref name="turnbull59-60" />
 
Ngày [[5 tháng 6]], [[1592]] Cánh quân thứ nhất gồm 18.000 lính<ref name="independentchungju" /> do Konishi Yukinaga chỉ huy rời [[Sangju]], và tiến đến tòa thành bị bỏ hoang ở [[Mungyeong|Văn Khánh]] vào ban đêm.<ref name="turnbull61-2">Turnbull, Stephen. 2002, p. 61-2.</ref> Ngày hôm sau, cánh thứ nhất đến Tangumdae vào đầu buổi trưa, ở đây họ gặp một đơn vị kỵ binh Triều Tiên trong [[Trận Trung Châu]]. Konishi chia quân mình thành 3 đường, và tấn công với súng hỏa mai từ cả hai cánh và chính diện.<ref name="turnbull61-2" /> Cung tên Triều Tiên không bắn được tới lính Nhật, và Thân Lạp dẫn đầu hai cuộc tấn công vào hàng ngũ quân Nhật nhưng đều thất bại. Thân Lạp sau đó nhảy xuống sông tự sát, và quân Triều Tiên cố vượt sông chạy trốn đều bị nhấn chìm, hay bị chặt đầu khi quân Nhật truy kích.<ref name="turnbull61-2" />
Hàng 559 ⟶ 612:
Đêm ngày [[22 tháng 7]], [[1592]], quân Triều Tiên im lặng vượt sông và phát động được một cuộc tấn công bất ngờ vào doanh trại quân Nhật.<ref name="turnbull72-3" /> Tuy vậy, việc này làm tỉnh giấc phần còn lại của quân Nhật, họ tấn công vào hậu quân Triều Tiên và tiêu diệt đội quân tiếp viện vượt sông.<ref name="turnbull73-4">Turnbull, Stephen. 2002, p. 73-4.</ref> Sau đó, phần còn lại của quân Triều Tiên rút lui trở về Bình Nhưỡng, và quân Nhật không đuổi theo quân Triều Tiên để tìm xem quân địch đã vượt sông bằng cách nào.<ref name="turnbull73-4" />
 
Ngày hôm sau, sử dụng cách mà họ đã quan sát được từ quân Triều Tiên rút chạy, người Nhật bắt đầu điều quân qua bờ bên kia qua điểm cạn của con sông, một cách có hệ thống, và khi đó, người Triều Tiên đã bỏ lại thành phố từ đêm hôm trước.<ref name="turnbull74-5">Turnbull, Stephen. 2002, p. 74-5.</ref> Vào ngày [[24 tháng 7]], đạo quân thứ nhất và thứ ba tiến vào thành Bình Nhưỡng.<ref name="turnbull74-5" />
 
==== Chiến dịch ở đạo [[Gangwon (tỉnh)|Giang Nguyên]]====
Cánh quân thứ tư dưới sự chỉ huy của Mōri Yoshinari tiến về phía Đông từ kinh đô Hán Thành trong tháng 7, và chiếm các tòa thành dọc bờ biển từ [[Anbyon|An Biên]] đến [[Samcheok|Tam Trắc]].<ref name="turnbull74-5" /> Cánh quân này sau đó quay vào trong nội địa chiếm [[Jeongseon|Tinh Thiện]], [[Yeongwol|Ninh Việt]], và [[Pyeongchang|Bình Xương]], và đóng quân tại thủ phủ đạo này tại [[Wonju|Nguyên Châu]].<ref name="turnbull74-5" /> Tại đây Mōri Yoshinari thiết lập sự quản lý dân sự, cấp bậc xã hội một cách có tổ chức theo kiểu Nhật, và kiểm soát việc đo đạc đất đai.<ref name="turnbull74-5" /> Shimazu Yoshihiro, một trong các vị tướng trong cánh quân thứ tư, đến [[Gangwon (tỉnh)|Giang Nguyên]] muộn, do cuộc [[nổi loạn Umekita]], và kết thúc chiến dịch với việc chiếm [[Chuncheon|Xuân Xuyên]].<ref name="turnbull75-6">Turnbull, Stephen. 2002, p. 75-6.</ref>
 
==== Chiến dịch ở đạo [[Hamgyong|Hàm Kính]] và [[Mãn Châu]]====
Katō Kiyomasa dẫn hơn 20.000 lính thuộc cánh quân thứ hai, hành quân 10 ngày vượt qua bán đảo đến [[Anbyon|An Biên]], và quét lên phía Bắc dọc bờ biển phía Đông.<ref name="turnbull75-6" /> Trong các thành bị chiếm có [[Hamhung|Hàm Hưng]], thủ phủ đạo [[Hamgyong|Hàm Kính]], và ở đây một phần cánh quân thứ hai được dùng để phòng ngự và quản lý dân sự.<ref name="turnbull77-8">Turnbull, Stephen. 2002, p. 77-8.</ref>
 
10.000 lính còn lại của cánh quân này<ref name="turnbull240" /> tiếp tục tiến lên phía Bắc, giao chiến ngày [[23 tháng 8]] với quân đội phía Nam và Bắc Hàm Cảnh dưới quyền quyền chỉ huy của Yi Yong tại Songjin (ngày nay là [[Kimchaek]]).<ref name="turnbull77-8" /> Một đạo kỵ binh Triều Tiên lợi dụng chiến trường mở tại Songjin, và đẩy quân Nhật vào một kho gạo.<ref name="turnbull77-8" /> Ở đây, quân Nhật lấy các đụn gạo làm chường ngại, và dùng súng hỏa mai đẩy lui được đội hình tấn công của quân Triều Tiên.<ref name="turnbull77-8" /> Trong khi quân Triều Tiên dự định tái chiến vào buổi sáng, Katō Kiyomasa phục kích họ vào ban đêm; cánh quân thứ hai hoàn toàn bao vây quân đội Triều Tiên, chỉ chừa một đường mở dẫn đến một đầm lầy.<ref name="turnbull77-8" /> Ở đây, những người chạy thoát bị mắc kẹt và bị tàn sát hết.<ref name="turnbull77-8" />
 
Quân Triều Tiên tháo chạy báo động với các đồn khác, cho phép quân Nhật dễ dàng đánh chiếm [[Kilju|Cát Châu]], [[Myongchon|Minh Xuyên]], và [[Kyongsong|Kính Thành]].<ref name="turnbull77-8" /> Cánh quân thứ hai sau đó quay ngược vào trong nội địa qua [[Puryong|Phú Ninh]] đến [[Hoeryong|Hội Ninh]] nơi các Vương tử Triều Tiên đang trú ẩn.<ref name="turnbull77-8" /> Ngày [[30 tháng 8]], [[1592]], cánh quân thứ hai tiến vào [[Hoeryong]], ở đây Katō Kiyomasa tiếp các Hoàng tử Triều Tiên và quan tổng trấn Yu Yong-rip, những người đã bị dân địa phương bắt giữ.<ref name="turnbull77-8" /> Ít lâu sau đó, một nhóm quân lính Triều Tiên giao nộp đầu của một viên tướng Triều Tiên vô danh, và Tướng Han Kuk-ham cột nó vào dây thừng.<ref name="turnbull77-8" />
 
Katō Kiyomasa sau đó quyết định tấn công toà thành của người [[Nữ Chân]] gần đó dọc [[sông Đồ Môn|sông Tumen]] ở [[Mãn Châu]] để thử xem binh lính của mình chiến đấu thế nào với nhũng kẻ "man di", như người Triều Tiên gọi người Nữ Chân ("[[Orangkae]]" trong tiếng Triều Tiên và "Orangai" trong tiếng Nhật – chữ tiếng Nhật có nguồn gốc từ từ nguyên và khái niệm như man di từ tiếng Triều Tiên).<ref name="turnbull79-80">Turnbull, Stephen. 2002, p. 79-80.</ref> 3.000 lính Triều Tiên tại [[Hamgyong]] cũng tham chiến (cùng với 8.000 quân của Kato), vì người Nữ Chân định kỳ vẫn đột kích họ dọc biên giới.<ref name="turnbull79-80" /> Đội quân liên hợp nhanh chóng chiếm thành, và đóng trại gần biên giới; sau khi quân Triều Tiên trở về nhà, quân Nhật phải chịu những cuộc đột kích đáp trả của người Nữ Chân.<ref name="turnbull79-80" /> Bất chấp đang nắm lợi thế, Katō Kiyomasa rút lui để tránh tổn thất nặng.<ref name="turnbull79-80" /> Vì cuộc xâm lược này, và một phần vì người sáng lập [[nhà Kim]] trước kia của người Nữ Chân có tổ tiên là [[Hanpu|người Triều Tiên]], chỉ huy Nữ Chân là [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]] đề nghị trợ giúp quân sự cho Triều Tiên và nhà Minh trong chiến tranh. Tuy vậy, lời đề nghị này bị cả hai nước từ chối, đặc biệt là Triều Tiên, nói rằng thật là ô nhục nếu chấp nhận sự giúp đỡ từ những kẻ man di phương Bắc.
 
Cánh quân thứ hai tiếp tục tiến về phía Đông, đánh chiếm các thành [[Jongseong]], [[Onsong|Ổn Thành]], [[Kyongwon|Khánh Nguyên]], và [[Kyonghung|Khánh Hưng]], và cuối cùng đến [[Sosupo]] trên cửa sông [[Đồ Môn]].<ref name="turnbull79-80" /> Ở đây, quân Nhật nghỉ ngơi trên bờ biển, ngắm một hòn đảo núi lửa nhô lên từ đường chân trời mà họ ngỡ là [[núi Phú Sĩ]].<ref name="turnbull79-80" /> Sau khi nghỉ ngơi, quân Nhật tiếp tục những nỗ lực trước đó nhằm quan liêu hóa và cai quản tỉnh này, cho phép người Triều Tiên tự mình quản lý 7 thành.<ref name="turnbull81-82">Turnbull, Stephen. 2002, p. 81-82.</ref>
 
=== Những trận hải chiến của Lý Thuấn Thần ===
{{chính|Chiến dịch hải quân của Triều Tiên năm 1592}}
 
Đã chiếm được Bình Nhưỡng, quân Nhật lên kế hoạch vượt [[áp Lục|sông Áp Lục]] tiến vào lãnh thổ của người [[Nữ Chân]], và sử dụng vùng nước phía Tây bán đảo Triều Tiên để cung cấp cho cuộc xâm lược.<ref name="turnbull82">Turnbull, Stephen. 2002, p. 82.</ref> Tuy vậy, [[Lý Thuấn Thần]], người giữ chức quan Thủy quân Tả đạo (tương đương với "[[Đô đốc]]") của đạo [[Jeolla|Toàn La]] (bao phủ vùng biển phía Tây Triều Tiên), tiêu diệt các thuyền chở quân và tiếp vận của Nhật Bản.<ref name="turnbull82" /> Do đó, quân Nhật, nay thiếu vũ khí và binh lính để tiếp tục xâm lược Nữ Chân, chuyển mục tiêu của cuộc chiến sang chiếm đóng Triều Tiên.<ref name="turnbull82" />
 
Khi lính Nhật đổ bộ xuống cảng [[Busan|Phủ Sơn]], Park Hong, Thủy quân Tả đạo [[Gyeongsang|Khánh Thượng]], thiêu hủy toàn bộ hạm đội, căn cứ, vũ khí và hàng dự trữ của mình, rồi tháo chạy.<ref name="turnbull83-4" /> [[Nguyên Quân]] (元均), Thủy quân Hữu đạo, cũng thiêu hủy và từ bỏ căn cứ của mình, và chạy đến [[Goyang|Cao Dương]] với chỉ 4 tàu.<ref name="turnbull83-4" /> Cho nên, không có hoạt động hải quân Triều Tiên nào ở quanh đạo [[Gyeongsang|Khánh Thượng]], và hai đội hải quân còn lại, trong số 4 hạm đội, chỉ tích cực hoạt động ở phía bên kia bán đảo (phía Đông)<ref name="turnbull83-4" /> Nguyên Quân sau đó gửi một bức thư cho Lý Thuấn Thần rằng ông chạy đến Cao Dương sau khi bị quân Nhật vượt trội về quân số đánh bại.<ref name="turnbull85-6">Turnbull, Stephen. 2002, p. 85-6.</ref> Một người đưa tin cử đến gặp Lý Thuấn Thần ở gần đảo [[Namhae|Nam Hải]] truyền lệnh cho ông chuẩn bị chiến tranh, chỉ để thấy nó bị cướp phá và bị cư dân ở đó bỏ hoang.<ref name="turnbull85-6" /> Khi binh lính bí mật tháo chạy, Lý Thuấn Thần ra lệnh "bắt giữ những kẻ bỏ trốn" và chặt đầu hai kẻ bỏ trốn bị bắt lại, rồi bêu đầu thị chúng.<ref name="turnbull85-6" />
 
Những trận đánh của Lý Thuấn Thần ảnh hưởng lớn đến cuộc chiến và khiến việc tiếp vận cho quân Nhật trở nên đặc biệt căng thẳng.<ref name="turnbull90-1">Turnbull, Stephen. 2002, p. 90-1.</ref>
 
==== Trận Ngọc Phố ====
{{chính|Trận Ngọc Phố}}
 
Lý Thuấn Thần dựa trên một mạng lưới ngư dân địa phương và thuyền do thám để nhận tin tức về bước đi của kẻ địch.<ref name="turnbull90-1" /> Rạng sáng ngày [[13 tháng 6]], [[1592]], Lý Thuấn Thần và Đô đốc [[Lý Ức Kỳ]] (李億祺) khởi hành với 24 [[Bản ốc thuyền]], 15 tàu chiến loại nhỏ, và 46 thuyền (ví dụ như thuyền đánh cá), và đến vùng biển đạo [[Gyeongsang|Khánh Thượng]] lúc mặt trời lặn.<ref name="turnbull90-1" /> Ngày hôm sau, hạm đội [[Jeolla|Toàn La]] tới địa điểm đã định nơi Nguyên Quân được cho là đã gặp họ và gặp Nguyên vào ngày [[15 tháng 6]]. Đội tàu nhỏ tăng cường có 91 chiếc<ref name="barry11">Strauss, Barry. các trang 11</ref> sau đó bắt đầu đi vòng quanh [[đảo Geoje|đảo Cự Tế]], tiến đến đảo Gadeok, nhưng tàu do thám Triều Tiên phát hiện 50 tàu Nhật tại cảng [[Okpo|Ngọc Phố]].<ref name="turnbull90-1" /> Khi nhìn thấy hạm đội Triều Tiên đang tới gần, một số quân Nhật việc chuyển những thứ cướp bóc vào tàu mình, và bắt đầu bỏ trốn.<ref name="turnbull90-1" /> Vào lúc đó, hạm đội Triều Tiên bao vây, và kết liễu chúng bằng hàng những đợt oanh tạc của pháo binh.<ref name="turnbull91-2">Turnbull, Stephen. 2002, p. 90-2.</ref> Quân Triều Tiên xác định thêm 5 tàu Nhật vào buổi tối, và diệt được 4 chiếc.<ref name="turnbull91-2" /> Ngày hôm sau, quân Triều Tiên tiếp cận 13 tàu Nhật tại Jeokjinpo theo tin tức tình báo.<ref name="turnbull91-2" /> Tình hình cũng diễn ra tương tự như tại Okpo, hạm đội Triều Tiên tiêu diệt 11 tàu Nhật – kết thúc trận Ngọc Phố mà không mất một tàu nào.<ref name="turnbull91-2" />
 
[[Tập tin:Turtle boat.jpg|250px|phải|nhỏ|Bản sao thuyền con rùa tại [[Bảo tàng Chiến tranh (Seoul)]].]]
 
==== Trận Tứ Xuyên và thuyền con rùa ====
{{chính|Trận Tứ Xuyên (Triều Tiên - 1592)}}
 
Khoảng 3 tuần sau trận Ngọc Phố <ref name="barry12">Strauss, Barry. các trang 12</ref>, Lý Thuấn Thần và Nguyên Quân cùng 26 tàu (23 của Lý) tiến đến vịnh [[Sacheon|Tứ Xuyên]] khi nhận được tin tình báo về sự hiện diện của quân Nhật.<ref name="turnbull93">Turnbull, Stephen. 2002, p. 93.</ref> Lý Thuấn Thần đã bỏ lại đằng sau những thuyền đánh cá của mình vốn tạo nên phần lớn hạm đội của ông để đóng các [[thuyền con rùa]].<ref name="barry12" />
 
[[Tàu con rùa|Thuyền con rùa]] là thuyền theo thiết kế của [[Bản ốc thuyền]] với việc bỏ đi vị trí chỉ huy trên cao, thay đổi mép thuyền thành tàu cong, và thêm vào mái có phủ gai sắt (và các đĩa sắt sáu cạnh, vẫn đang được tranh luận).<ref name="turnbull94-5">Turnbull, Stephen. 2002, p. 94-5.</ref> Thành tàu bao gồm 36 nơi giấu đại bác, và các lỗ mở ở trên đại bác, qua đó thủy thủ đoàn có thể nhìn ra ngoài và bắn hỏa khí cá nhân của mình.<ref name="turnbull93" /> Thiết kế này cản được quân địch lên boong tàu cũng như nhắm bắn vào người bên trong.<ref name="turnbull94-5" /> Thuyền này cũng là thuyền chiến chạy nhanh nhất ở chiến trường Đông Á, vì nó có 2 buồm và 80 tay chèo thay thế nhau điểu khiển 16 mái chèo.<ref name="barry10" /> Không nhiều hơn 6 chiếc thuyền con rùa chiến đấu trong toàn bộ cuộc chiến, và vai trò quan trọng của chúng là thọc sâu vào hàng ngũ quân thù, tạo ra sự tàn phá bằng đại bác của mình, và tiêu diệt kỳ hạm địch.<ref name="barry10" />
 
Ngày [[8 tháng 7]], [[1592]], hạm đội đến cảng [[Sacheon|Tứ Xuyên]], nơi con triều đang rút cản hạm đội Triều Tiên tiến vào.<ref name="barry12" /> Do đó, Lý Thuấn Thần ra lệnh cho hạm đội giả vờ rút lui, chỉ huy quân Nhật quan sát thấy điều đó từ lều của ông từ một khối đá nhô lên khỏi mặt biển.<ref name="turnbull94-5" /> Khi đó quân Nhật nhanh chóng lên 12 tàu của mình và đuổi theo hạm đội Triều Tiên.<ref name="barry12" /> Thủy quân Triều Tiên phản kích, với thuyền con rùa đi đầu, và tiêu diệt được cả 12 tàu.<ref name="barry12" /> Lý Thuấn Thần bị đạn bắn trúng tay trái, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng.<ref name="barry12" />
 
==== Trận Đường Phố ====
Ngày [[10 tháng 7]], [[1592]], hạm đội Triều Tiên lại phát hiện và tiêu diệt 21 thuyền Nhật, bỏ neo tại [[Dangpo|Đường Phố]] (唐浦) trong khi quân Nhật đột kích một thị trấn ven biển.<ref name="turnbull96-7">Turnbull, Stephen. 2002, p. 96-7.</ref>
 
==== Trận Đường Hạng Phố ====
Thủy quân Tả đạo Lý Ức Kỳ cùng với hạm đội của mình hội quân với Lý Thuấn Thần và Nguyên Quân, và tham gia tìm kiếm thuyền địch tại vùng biển Khánh Thượng.<ref name="turnbull96-7" /> Ngày [[13 tháng 7]], các vị tướng nhận được tin tình báo rằng một đội thuyền của Nhật bao gồm những chiếc chạy thoát từ trận Dangpo đang nghỉ ở vịnh [[Danghangpo|Đường Hạng Phố]].<ref name="turnbull96-7" /> Đi qua một vịnh hẹp, quân Triều Tiên trông thấy 26 thuyền địch trong vịnh.<ref name="turnbull96-7" /> Thuyền con rùa được sử dụng để xuyên thủng đội hình quân địch và đâm thẳng vào kỳ hạm địch, trong khi phần còn lại của hạm đội Triều Tiên ở phía sau.<ref name="turnbull98-107">Turnbull, Stephen. 2002, p. 98-107.</ref> Sau đó Lý Thuấn Thần ra lệnh giả vờ rút lui, vì quân Nhật có thể chạy lên đất liền khi ở trong vịnh.<ref name="turnbull98-107" /> Khi quân Nhật đuổi theo đủ xa, hạm đội Triều Tiên quay lại và bao vây hạm đội Nhật Bản, với thuyền con rùa lại một lần nữa đâm thẳng vào kỳ hạm địch. Quân Nhật không thể chống lại đại bác Triều Tiên. Chỉ 1 thuyền Nhật chạy thoát từ đường này, và nó cũng bị bắt và bị thuyền Triều Tiên thiêu hủy sáng hôm sau.
 
[[Tập tin:Su Jo Byung Pung Do.JPG|nhỏ|phải|350px|Thế trận hình cánh hạc của Lý Thuấn Thần, nổi tiếng khi sử dụng tại [[Trận đảo Nhàn Sơn]].]]
 
==== Trận Yulpo ====
Ngày [[15 tháng 7]], hạm đội Triều Tiên tiến về phía Đông để trở về đảo Gadok, và chặn đường, tiêu diệt 7 tàu của Nhật đi ra từ cảng Yulpo.<ref name="turnbull98-107" />
 
==== Trận đảo Nhàn Sơn ====
{{chính|Trận đảo Nhàn Sơn}}
 
Để đối phó với những thắng lợi của hải quân Triều Tiên, Toyotomi Hideyoshi gọi lại 3 đô đốc từ các hoạt động trên đất liền: Wakizaka Yasuharu, Kato Yoshiaki, và Kuki Yoshitaka.<ref name="turnbull98-107" /> Họ là những người duy nhất có trách nhiệm về hải quân trong toàn bộ đội quân xâm lược của Nhật Bản.<ref name="turnbull98-107" /> Tuy vậy, các viên Đô đốc này đến [[Busan|Phủ Sơn]] trước khi mệnh lệnh Hideyoshi ban đến 9 ngày, và tổ chức một hạm đội để đối phó với hải quân Triều Tiên.<ref name="turnbull98-107" /> Cuối cùng, Đô đốc Wakizaka hoàn thành việc chuẩn bị của mình, và việc háo hức lập công khiến ông phát động tấn công mà không chờ các vị Đô đốc kia chuẩn bị xong.<ref name="turnbull98-107" />
 
Hạm đội thủy quân liên hợp Triều Tiên gồm 70 thuyền<ref name="barry13">Strauss, Barry. các trang 13</ref> dưới sự chỉ huy của Thủy quân Tả đạo Lý Thuấn Thần và Lý Ức Kỳ tiến hành cuộc hành quân tìm diệt vì binh lính Nhật trên đất liền đang tiến vào đạo [[Jeolla|Toàn La]].<ref name="turnbull98-107" /> Đạo này là phần lãnh thổ duy nhất của Triều Tiên vẫn chưa bị đụng đến bởi hoạt động quân sự lớn, và là căn cứ của 3 vị Thủy quân Tả đạo và lực lượng hải quân duy nhất của Triều Tiên.<ref name="turnbull98-107" /> Các Thủy quân Tả đạo Triều Tiên thấy đây là cơ hội tốt nhất để tiêu diệt sự hỗ trợ từ hải quân của quân Nhật và giảm sự tác động của bộ binh địch.<ref name="turnbull98-107" />
 
Ngày [[13 tháng 8]], [[1592]], hạm đội Triều Tiên khởi hành từ [[đảo Miruk]] tại [[Dangpo|Đường Phố]] nhận được tin tình báo địa phương về một hạm đội lớn của Nhật ở gần đó.<ref name="turnbull98-107" /> Sáng hôm sau, hạm đội Triều Tiên xác định hạm đội 82 thuyền Nhật Bản bỏ neo ở eo vịnh [[Gyeonnaeryang]].<ref name="turnbull98-107" /> Vì eo biển hẹp và mối nguy hiểm từ đá ngầm, Lý Thuấn Thần mang 6 tàu chiến đến lừa 63 thuyền Nhật vào vùng biển rộng,<ref name="barry13" /> và hạm đội Nhật đuổi theo.<ref name="turnbull98-107" /> Ở đây, hạm đội Nhật Bản bị hạm đội Triều Tiên bao vây theo trận địa hình bán nguyệt tên gọi "cánh hạc" của Lý Thuấn Thần.<ref name="turnbull98-107" /> Với ít nhất 3 tàu con rùa (2 trong số đó mới hoàn thành) dẫn đầu trận đánh, hạm đội Triều Tiên bắn hàng loạt đại bác vào đội hình quân Nhật.<ref name="turnbull98-107" /> Sau đó, thuyền Triều Tiên loạn đả với thuyền Nhật, duy trì khoảng cách đủ xa để không cho quân Nhật tiếp cận boong tàu - Lý Thuấn Thần chỉ cho phép cận chiến khi đã làm thiệt hại nặng thuyền Nhật.<ref name="turnbull98-107" /> Trận đánh chấm dứt với thắng lợi của Triều Tiên, Nhật mất 59 thuyền – 47 chìm và 12 bị bắt.<ref name="barry14">Strauss, Barry. các trang 14</ref> Vài tù binh chiến tranh Triều Tiên được lính Triều Tiên giải thoát trong chiến đấu. Đô đốc Wakisaka chạy thoát nhờ kỳ hạm tốc độ cao của mình.<ref name="barry14" /> Khi tin về thất bại tại Hansando đến tại Toyotomi Hideyoshi, ông ra lệnh cho quân Nhật dừng mọi cuộc hành quân trên biển.<ref name="turnbull98-107" />
 
==== Trận Angolpo ====
Ngày [[16 tháng 8]], [[1592]], Lý Thuấn Thần dẫn hạm đội của mình đến cảng Angolpo nơi 42 tàu của Nhật đang đậu.<ref name="turnbull98-107" /> Khi Lý Thuấn Thần giả vờ rút chạy, quân Nhật không đuổi theo; đáp lại, Lý Thuấn Thần ra lệnh cho thuyền Triều Tiền quay lại bắn phá thuyền Nhật.<ref name="turnbull98-107" /> Lo sợ rằng binh lính Nhật trút nỗi căm thù vào đầu nhân dân địa phương, Lý Thuấn Thần ra lệnh cho thuyền Triều Tiêu ngừng bắn với một ít thuyền địch còn lại.<ref name="turnbull98-107" />
 
=== Dân quân Triều Tiên ===
{{chính|Uibyeong}} (Nghĩa binh)
 
Từ đầu chiến tranh, người Triều Tiên đã tổ chức các đội dân quân gọi là "Nghĩa binh" (의병) để chống quân Nhật xâm lược.<ref name="yahooright">{{chú thích web
| last =
| first =
| authorlink =
| coauthors =
| title = 의병 (義兵)
| work = Encyclopedia
| publisher = Yahoo Korea!
| date =
| url = http://kr.dic.yahoo.com/search/enc/result.html?p=%C0%C7%BA%B4&pk=16989000&subtype=&type=enc&field=id
| format =
| doi =
| accessdate = ngày 7 tháng 10 năm 2007 }}</ref> Những nhóm chiến đấu này nổi lên ở khắp đất nước, và tham dự và các trận chiến, đánh du kích, bao vây, vận chuyển và xây dựng những gì cần thiết thời chiến.<ref name="turnbull108-9" />
 
Có ba loại dân binh Triều Tiên chính trong chiến tranh: thứ nhất, những binh lính Triều Tiên chính quy sống sót sau trận đánh và không có chỉ huy; thứ hai, "nghĩa binh" (Uibyeong trong tiếng Triều Triên) bao gồm các quý tộc [[lưỡng ban]] và dân thường yêu nước; và thứ ba là các nhà sư(do [[Thanh Hư Đường Tập (Tây Sơn Đại Sư)|Tây Sơn Đại Sư]] lãnh đạo).<ref name="turnbull108-9" />
 
Trong cuộc xâm lược lần thứ nhất, đạo [[Jeolla|Toàn La]] là nơi vùng duy nhất trên bán đảo Triều Tiên không bị đụng đến.<ref name="turnbull108-9">Turnbull, Stephen. 2002, p. 1-8-9.</ref> Thêm vào các cuộc tuần canh thành công trên biển của Lý Thuấn Thần, sự tuyên truyền tích cực tự nguyện gây sức ép với binh lính Nhật để họ tránh tỉnh này.<ref name="turnbull108-9" />
 
==== Chiến dịch của Quách Tái Hữu dọc [[sông Nakdong|sông Lạc Đông]] ====
[[Quách Tái Hữu]] (郭再祐) là một lãnh đạo nổi tiếng của phong trào dân quân yêu nước Triều Tiên, và ông được chấp nhận rộng rãi là người đầu tiên thành lập đội dân quân kháng chiến chống quân Nhật xâm lược.<ref name="turnbull110-5" /> Ông là địa chủ ở thị trấn [[Uiryeong|Nghi Ninh]] nằm bên bờ [[sông Nam]] ở đạo [[Gyeongsang|Khánh Thượng]]. Khi lính chính quy Triều Tiên từ bỏ thị trấn <ref name="turnbull108-9" /> và cuộc tấn công dường như sắp xảy đến, Quách Tái Hữu tổ chức một đạo quân gồm 50 trai tráng trong thị trấn; tuy vậy, cánh quân thứ 3 đến từ [[Changwon|Xương Nguyên]] đi thẳng tới [[Sangju|Thượng Châu]].<ref name="turnbull110-5">Turnbull, Stephen. 2002, p. 110-5.</ref> Khi Quách lấy kho đụn bị bỏ lại của triều đình để cung cấp cho quân đội mình, Tổng đốc đạo [[Gyeongsang|Khánh Thượng]] [[Kim Su]] gọi đội quân của Quách là phản tặc, và ra lệnh cho nó giải tán.<ref name="turnbull110-5" /> Khi viên tướng yêu cầu các địa chủ khác giúp đỡ, và gửi lời yêu cầu khẩn khoản thẳng đến vua Tuyên Tổ, viên Tổng đốc gửi binh chống lại Quách, bất chấp việc đã có đủ rắc rối với quân Nhật.<ref name="turnbull110-5" /> Tuy vậy, một viên quan từ kinh đô sau đó tới nơi và trưng binh tại tỉnh này, và vì viên quan này sống ở gần đó và thực ra cũng biết về con người Quách, ông cứu Quách Tái Hữu khỏi phiền phức với viên Tổng đốc.<ref name="turnbull110-5" />
 
Quách Tái Hữu cho quân đánh du kích dưới sự che chở của những đám sậy cao ở nơi hợp lưu hai con sông [[sông Nakdong|Lạc Đông]] và sông Nam.<ref name="turnbull110-5" /> Chiến thuật này ngăn cản quân Nhật dễ dàng tiếp cận đạo [[Jeolla|Toàn La]] nơi Lý Thuấn Thần và hạm đội của ông đang đóng.<ref name="turnbull110-5" />
 
Quách Tái Hữu được mệnh danh là "Hồng y tướng quân". Danh hiệu này đến từ việc ông ra trận với chiếc áo được thấm máu [[kinh nguyệt]] lần đầu của một cô gái trẻ. Ông tin rằng "khí âm" của người phụ nữ có thể đầy lùi được "khí dương" trong thuốc súng của kẻ thủ. Quan niệm này rõ ràng là mê tín, nhưng Quách Tái Hữu đã thực sự sống sót sau cả cuộc chiến và chỉ qua đời vì tuổi già.
 
==== Trận [[Uiryeong|Nghi Ninh]]/Thanh Tân ====
Cánh quân thứ 6 dưới sự chỉ huy của Kobayakawa Takakage có nhiệm vụ chiếm Toàn La.<ref name="turnbull110-5" /> Cánh quân thứ 6 hành quân đến Thượng Châu qua con đường đã được quân Nhật thiết lập (cánh quân thứ ba ở phía trên), và cắt trái đến [[Geumsan|Cẩm Sơn]] ở đạo [[Chungcheong|Trung Thanh]], nơi Kobayakawa chiếm làm bàn đạp để tấn công tỉnh này.<ref name="turnbull110-5" />
 
Ankokuji Ekei, từng là một nhà sư, trở thành tướng nhờ vai trò của ông trong cuộc thương thảo giữa Mōri Terumoto và Toyotomi Hideyoshi, dẫn các đơn vị của Cánh quân thứ 6 tấn công vào đạo Toàn La. Các đơn vị này bắt đầu hành quân đến [[Uiryeong|Nghi Ninh]] tại [[Changwon|Xương Nguyên]], và đến [[sông Nam]].<ref name="turnbull110-5" /> Thám báo của Ankokuji dựng cọc đo độ sâu của con sông để toàn bộ đội quân có thể vượt qua; ban đêm, dân quân Triều Tiên chuyển cọc này sang các đoạn sông sâu hơn.<ref name="turnbull110-5" /> Khi quân Nhật bắt đầu vượt sông, dân quân của Quách Tái Hữu phục kích họ, khiến quân Nhật thiệt hại nặng.<ref name="turnbull110-5" /> Cuối cùng, để tiến vào đạo Toàn La, lính của Ankokuji phải thử đi lên phía Bắc xung quanh các vùng chưa chiếm được và trong vòng an ninh của các đồn lũy Nhật Bản.<ref name="turnbull110-5" /> Tại Kaenyong, mục tiêu của Ankokuji đổi thành [[Gochang|Cao Sưởng]], chiếm được với sự trợ giúp của Kobayakawa Takakage.<ref name="turnbull110-5" /> Tuy vậy, toàn bộ chiến dịch Toàn La sau đó bị hủy bỏ khi [[Kim Myeon]] và đội du kích của ông phục kích thành công binh lính của Ankokuji bằng cách bắn tên từ các vị trí ẩn trong dãy núi.<ref name="turnbull110-5" />
 
==== Liên quân [[Jeolla|Toàn La]] và Trận [[Yongin|Long Nhân]] ====
Khi quân Nhật đang tiến tới [[Seoul|Hán Thành]],[[Lý Quang]] (李洸), Tổng đốc đạo [[Jeolla|Toàn La]], cố ngăn bước tiến của quân Nhật bằng cách đưa quân của mình tiến đến kinh đô.<ref name="turnbull116-123">Turnbull, Stephen. 2002, các trang 116-123.</ref> Khi nghe tin kinh đô đã bị chiếm, viên tổng đốc rút quân.<ref name="turnbull116-123" /> Tuy vậy, với quân đội lên tới 50.000 lính cộng thêm vài lực lượng tình nguyện, Yi Kwang và những chỉ huy không chính quy cân nhắc lại mục tiêu chiếm lại Hán Thành, và dẫn liên quân lên phía Bắc [[Suwon|Thủy Nguyên]], cách Hán Thành 42 cây số về phía Nam.<ref name="turnbull116-123" /><ref name="britannicasuwon">{{chú thích web
| last =
| first =
| authorlink =
| coauthors =
| title = Suwon
| work =
| publisher = Encyclopedia Britannica
| date =
| url = http://www.britannica.com/eb/article-9070532/Suwon
| format =
| doi =
| accessdate = ngày 1 tháng 9 năm 2007 }}</ref> Ngày [[4 tháng 6]], đội quân tiên phong 1.900 lính cố chiếm ngôi thành gần đó tại [[Yongin|Long Nhân]], nhưng 600 lính phòng thủ Nhật của Đô đốc Wakizaka Yasuharu tránh chạm tránh với quân Triều Tiên cho đến ngày [[5 tháng 6]], khi đại quân Nhật đến giải vây cho thành.<ref name="turnbull116-123" /><ref name="britannicasuwon2">{{chú thích web
| last =
| first =
| authorlink =
| coauthors =
| title = 용인전투
| work = Britannica Encyclopedia
| publisher = Daum
| date =
| url = http://enc.daum.net/dic100/contents.do?query1=b16a3034a
| format =
| doi =
| accessdate = ngày 1 tháng 9 năm 2007 }}</ref> Quân Nhật phản kích liên quân Toàn La thành công, buộc quân Triều Tiên phải bỏ vũ khí rút chạy.<ref name="turnbull116-123" />
 
==== Chiến dịch [[Geumsan|Cẩm Sơn]] lần thứ nhất ====
Trong lúc Tướng Kwak huy động quân tình nguyện ở đạo [[Gyeongsang|Khánh Thượng]], [[Go Gyeong-myeong]] ở đạo [[Jeolla|Toàn La]] lập một đội quân tình nguyện 6.000 người.<ref name="turnbull116-123" /> Sau đó, Go cố kết hợp lực lượng của mình với một nhóm dân quân khác ở đạo [[Chungcheong|Trung Thanh]], nhưng khi băng qua đường biên của tỉnh, ông được tin Cánh quân thứ sáu của Kobayakawa Takakage đã phát động một cuộc tấn công vào [[Jeonju|Toàn Châu]], thủ phủ đạo [[Jeolla|Toàn La]] từ sơn thành tại [[Geumsan|Cẩm Sơn]]. Go trở về vùng đất của mình.<ref name="turnbull116-123" /> Sau khi gia nhập lực lượng của tướng Gwak Yong, Go dẫn binh lính của mình đến Cẩm Sơn.<ref name="turnbull116-123" /> Ở đó, ngày [[10 tháng 7]], ông tình nguyện chặn đánh quân Nhật rút lui đến [[Geumsan|Cẩm Sơn]] sau khi bại trận tại [[Trận Ichi]] hai ngày trước đó <ref name="daumichi">{{cite encyclopedia
| title = [http://enc.daum.net/dic100/contents.do?query1=b18a0543a 이치전투 (조선 역사) &#91;梨峙戰鬪&#93;]
| encyclopedia = Daum 백과사전(Britannica)
| volume =
| pages =
| publisher = Daum.net
| date =
| id =
| accessdate = ngày 29 tháng 9 năm 2007 }}</ref>
 
===[[Cuộc vây hãm Tấn Châu (1592)|Cuộc vây hãm Tấn Châu]]===
{{chính|Cuộc vây hãm Tấn Châu (1592)}}
 
[[Jinju|Tấn Châu]] (Jinju, 진주) là tòa thành lớn bảo vệ đạo [[Jeolla|Toàn La]]. Chỉ huy quân Nhật biết rằng chiếm được Tấn Châu nghĩa là toàn bộ đạo Toàn La thất thủ. Do đó, một đội quân lớn dưới quyền chỉ huy của [[Hosokawa Tadaoki]] hân hoan tiến đến Tấn Châu. Tấn Châu do tướng [[Kim Thời Mẫn]] (金時敏, 김시민) trấn giữ, đây là một trong ba vị tướng tài của Triều Tiên, chỉ huy 3.000 lính giữ thành. Kim gần đây đã có được 200 súng hỏa mai, cân bằng sức mạnh hỏa lực với quân Nhật. Với sự trợ giúp của súng hỏa mai, đại bác, và súng cối, Kim và quân Triều Tiên có thể cố thủ, đẩy lùi được các đợt tấn công của quân Nhật.
 
Sau nhiều ngày cố thủ, một lực lượng gồm 2.500 dân quân do "Hồng y tướng quân" [[Quách Tái Hữu]] đến chi viện cho Tấn Châu vào ban đêm. Lực lượng chi viện này khá nhỏ, không đủ để phá vòng vây bao quanh pháo đài, nhưng Quách đã ra lệnh cho người của mình thu hút sự chú ý bằng cách thổi tù và, phao tin đồn về một đội quân lớn đang tiến tới. Lúc này, các chỉ huy Nhật Bản nghĩ rằng họ đã bị vây chặt hai cánh, buộc phải từ bỏ cuộc bao vây và tháo lui.
 
Hosokawa mất hơn 10.000 quân trong trận này. Trận đánh tại Tấn Châu được coi là một trong những thắng lợi quân sự lớn nhất của Triều Tiên vì nó đã cản được quân Nhật tiến vào Toàn La, đồng thời có giá trị cổ vũ tinh thần to lớn, nâng cao sí khí của quân dân Triều Tiên.
 
=== Sự can thiệp của nhà Minh Trung Quốc ===
{{chính|Lịch sử quân sự nhà Minh trong Chiến tranh Nhật Bản-Triều Tiên (1592-1598)}}
[[Minh Thần Tông]] và các quan lại của ông đáp lại lời thỉnh cầu trợ giúp từ [[Triều Tiên Tuyên Tổ]] bằng cách gửi đi một đội quân không tương xứng với chỉ 55.000 lính.<ref>[http://koreanhistoryproject.org/Ket/C12/E1204.htm The Home Front<!-- Bot generated title -->]</ref>
 
Kết quả là, Minh Thần Tông gửi một đội quân lớn vào tháng 1 năm 1593 dưới sự chỉ huy của hai vị tướng, [[Tống Ứng Xương]] và [[Lý Như Tùng]], trong đó Lý Như Tùng có tổ tiên là người Triều Tiên/Nữ Chân. Đội cứu binh có khoảng 100.000 người, tạo thành từ 42.000 quân từ năm quận phía Bắc và 3.000 lính giỏi sử dụng hỏa khí từ phía Nam Trung Quốc.
 
Tháng 1 năm 1593, đại quân Trung Quốc gặp một nhóm dân quân Triều Tiên ở ngoại thành [[Bình Nhưỡng]]. Bằng chiếu chỉ của Triều Tiên Tuyên Tổ, tướng quân nhà Minh Lý Như Tùng được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh quân đội Triều Tiên. Lý Như Tùng sau đó dẫn đầu liên quân chiến thắng trong [[Cuộc vây hãm Bình Nhưỡng (1593)]] đẫm máu.
 
Ngày 5/2/1593, 60.000 quân Trung Quốc và Triều Tiên tập trung sát [[Bình Nhưỡng]] đang bị quân Nhật chiếm đóng. Các tăng binh của Huyjong là những người tiên phong, họ tiến đánh một đơn vị Nhật đang giữ đồi Moranbong, cao điểm sát thành phố. Mất tới hai ngày đêm cùng 600 người, họ mới chiếm được mục tiêu. Sau đó, vào sáng ngày 8/2, Bình Nhưỡng bị bao vây, cuộc tấn công chính thức bắt đầu. Liên quân đông hơn nhiều quân Nhật trong thành, họ hoàn toàn áp đảo các tuyến phòng thủ ngoài và nhanh chóng áp sát tường thành. Quân của Konishi chưa đầu hàng mà lùi vào một pháo đài ở trung tâm thành phố để cố thủ. Do hao phí nhân lực, Lý Như Tùng ra lệnh cho quân mình rút lui. Trong thời gian tạm lắng, ông gửi thư tới cho Konishi đề nghị quân Nhật nếu rút lui thì sẽ được mở đường an toàn. Konishi đã mất 2.000 người và không thể cố thủ được nữa, bèn đồng ý rút quân từ Bình Nhưỡng về Seoul. Tướng Lý tập hợp quân của mình theo sát Konishi.
 
Quá tự tin với thành công bước đầu của mình, Lý Như Tùng tự mình dẫn 5.000 kỵ binh đuổi theo, cùng với một đạo quân nhỏ của Triều Tiên, nhưng bị đội hình gần 40.000 quân Nhật phục kích gần [[Pyŏkjewan|Bích Đề quán]] vào ngày 27/2/1593. Quân Nhật được chỉ huy bởi [[Kobayakawa Takakage]], đóng quân tại Bích Đề quán, cách 15&nbsp;km theo hướng bắc Seoul. Lý Như Tùng chạy thoát khi 5.000 quân đến giải vây.
 
=== [[Trận Hạnh Châu]] ===
{{chính|Trận Hạnh Châu}}
 
Sự kháng cự của quân Triều Tiên ngày một tăng lên. Dù quân Minh đã rút về đóng tại [[Bình Nhưỡng]] sau trận Bích Đề quán, nhưng quân Nhật vẫn trong cảnh bị bao vây bốn phía bởi: quân địa phương tại sông Imjin, Paju và đèo Haeyu ở phía bắc; các tăng binh tập trung tại Surak-san phía đông bắc, Chasong phía tây và Inchon phía nam. Đáng kể nhất là 2.300 binh lính tỉnh Cholla đang náu mình sau các công sự gỗ, trên một con dốc bên bờ sông Hàn; đứng đầu bởi chỉ huy [[Quyền Lật]] (權慄, Kwon Yul).
 
Quyền Lật là một quan lại 55 tuổi, xuất thân từ một gia tộc quyền thế ở vùng Andong, đông nam tỉnh Kyongsang. Khi chiến tranh bùng nổ, vào tháng 5 năm 1592, ông lãnh đạo một đạo quân ở phía bắc nỗ lực chặn đánh quân Nhật tiến về Seoul nhưng thất bại. Sau đó, ông chạy về phía nam và tiếp tục tham gia kháng chiến tại tỉnh Cholla (Toàn La), nơi quân đoàn 6 của Kobayakawa đang vây ráp. Quyền Lật thành danh nhờ đánh bại quân Nhật liên tiếp hai lần tại Ungchi và Ichi trong tuần thứ hai của tháng 7/1592. Ông nhanh chóng được đề bạt làm Tư lệnh quân đội tỉnh Cholla vào tháng sau.
 
Đầu năm 1593, Kwon Yul lãnh đạo một nhóm nhỏ ở phía bắc Seoul, chuẩn bị phối hợp tác chiến với đồng minh. Quyền Lật nhanh chóng tiến lên phía Bắc, chiếm lại [[Suwon|Thủy Nguyên]] và sau đó quay xuống phía Nam xuống [[Haengju|Hạnh Châu]], ở đó ông đợi quân tiếp viện Trung Quốc. Sau khi nhận được tin quân Triều Tiên bị tiêu diệt tại Byeokje, Quyền Lật quyết định củng cố bố phòng tại Hạnh Châu.
 
Sau khi kết nạp thêm các tăng binh của nhà sư Choyong, ông bắt đầu công việc kiến thiết một pháo đài đổ nát cách thủ đô 10&nbsp;km về phía tây, trên một ngọn đồi rìa làng Haengju, bờ bắc sông Hàn. Một cao điểm phòng thủ với phía sau là con dốc thoải xuống sông Hàn. Chỉ có thể tấn công cứ điểm này theo hướng chính diện, dọc theo tầm hỏa lực của quân Triều Tiên. Với việc quân Minh vào trạng thái tạm nghỉ, pháo đài Haengju của Kwon Yul trở thành cái gai lớn trong mắt quân Nhật ở Seoul. Ngày 14/3 quân Nhật quyết định hành động.
 
Sau chiến thắng tại Byeokje, Katō và đội quân 30.000 người của ông tiến xuống phía Nam Hán Thành để tấn công Hạnh Châu, một sơn thành lớn nhìn xuống vùng đất xung quanh. Đội quân 2.300 người của Quyền Lật đợi quân Nhật ở đây.
 
Kato tin rằng đội quân đông đảo của mình sẽ dễ dàng tiêu diệt người Triều Tiên và sau đó ra lệnh cho lính Nhật đơn giản tiến lên những sườn đồi dốc đứng ở Haengju với rất ít chuẩn bị. Quân Nhật không thể cùng lúc ào lên thành lũy được phải chia ra thành nhiều nhóm thay phiên nhau tấn công. Nhưng lần này, súng hỏa mai của quân Nhật kém hiệu quả đi rất nhiều. Quân Nhật không thể ngắm bắn chuẩn trên địa hình dốc, lại càng khó bắn trúng các mục tiêu ẩn khuất sau công sự. Lợi thế lại thuộc về quân Triều Tiên, họ triệt hạ quân Nhật bằng cung tên, gỗ và đá. Quyền Lật đáp trả quân Nhật với mưa lửa từ các công sự có sử dụng [[Hwacha|hỏa xa]] (một loại máy phóng hình hộp, gắn trên xe di động, có khả năng phóng hàng trăm mũi tên kèm thuốc súng một lúc), đá tảng, súng cầm tay, và cung tên.
 
Nhóm của [[Konishi Yukinaga]] tham chiến trước. Chờ cho quân địch tới đủ gần, Quyền Lật lập tức ra lệnh gióng ba hồi trống phát động tấn công. Người Triều Tiên dồn hỏa lực từ mọi loại vũ khí mà họ có: cung, đại bác, hwacha. Konishi buộc phải dẫn đội của mình thoái lui. [[Ishida Mitsunari]] thống lĩnh nhóm lính thứ hai, nhóm này cũng không thể tiến lên phía trước, chính Ishida cũng bị thương. Toán thứ ba của [[Kuroda Nagamasa]] cũng không thể thay đổi tình hình. Sau 3 đợt tấn công thất bại, [[Ukita Hideie]] đưa ra quyết định đột phá, cố gắng liều chết khoan thủng hàng chướng ngại vật trước mặt hòng mở đường tiếp cận pháo đài, nhưng Ukita bị thương và phải rút về. Đợt tiếp theo do Kikawa Hiroie chỉ huy tấn công thẳng vào khoảng trống mà Ukita đã mở ra trước đó, tiến sát tới bức tường phòng thủ cuối cùng giữa quân Nhật và tướng Quyền Lật.
 
Trận cận chiến ác liệt bắt đầu, quân Nhật cố gắng chém quân Triều Tiên phía sau các bức tường. Trong khi đó, quân Triều Tiên tử thủ với tất cả những gì họ có từ đao, kiếm, cung tên cho tới đất đá, thậm chí là cả nước sôi và tro trút xuống đầu phe địch. Vào hồi cao trào của cuộc vây hãm, tướng Quyền Lật không đánh trống trợ uy nữa mà tự tay cầm kiếm sát cánh chiến đấu bên binh sỹ của mình. Quân Nhật chất cỏ khô, đốt cháy pháo đài thì quân Triều Tiên ra sức dập lửa. Trong đợt tấn công thứ bảy do [[Kobayakawa Takakage]] dẫn đầu, một góc tường đã bị đục thủng, nhưng quân Triều Tiên kiên cường cầm chân quân Nhật đủ lâu để có thể vá lại bức tường gỗ.
 
Tới tận chiều, quân Triều Tiên thủ thành đã gần kiệt sức, cung tên thì sắp cạn. Những phụ nữ Triều Tiên tại Haengju đã cố gắng chi viện cho binh sỹ ở tiền tuyến, họ mang đá lên pháo đài bằng chiếc váy truyền thống của mình để binh sỹ Triều Tiên ném vào quân Nhật. Tinh thần yêu nước của những người phụ nữ này đã cổ vũ to lớn cho binh sỹ Triều Tiên tiếp tục chiến đấu, được sử sách và nhân dân Triều Tiên đời sau mãi ca ngợi (ngày nay ở Hàn Quốc/Triều Tiên vẫn còn loại váy tên [[Haengju chima]] để tưởng nhớ tinh thần yêu nước này).
 
Sau 7 đợt tấn công, tưởng chừng như quân Triều Tiên đã hết hy vọng, thì ngay sau đó, chỉ huy hải quân Yi Bun cùng hai chiếc tàu chở viện binh và 10 ngàn mũi tên của mình cập bến sông Hàn, ngay phía sau pháo đài. Thế là, pháo đài Haengju vẫn đứng vững qua đợt tấn công thứ tám, thứ chín cho tới khi mặt trời chuẩn bị lặn.
 
Sau 9 cuộc tấn công thất bại với thương vong khoảng 10.000 - 15.000 người, Kato đốt cháy các xác chết và cuối cùng rút quân. Trên đường quay về thành Seoul, một sĩ quan Nhật đã gọi chiến địa bờ sông Hàn là ''sanzu no kawa (dòng sông địa ngục)''.
 
Như vậy, quân xâm lược Nhật tiến vào tỉnh Jeolla bị lực lượng của tướng quân [[Quyền Lật]] đẩy lùi và đập tan trên những sườn đồi ở Ichiryeong. Quân dân Triều Tiên phải chiến đấu với quân Nhật đông hơn 13 lần, nhưng nhờ tinh thần chiến đấu kiên cường và chiến thuật hợp lý nên đã giành được chiến thắng.
 
[[Trận Hạnh Châu]] là chiến thắng quan trọng của quân Triều Tiên, nâng cao sí khí quân đội Triều Tiên. Trận đánh ngày nay được coi là một trong 3 chiến thắng quyết định nhất của quân Triều Tiên; [[Trận Hạnh Châu]], [[Cuộc vây hãm Tấn Châu (1592)]], và [[Trận đảo Nhàn Sơn]].
 
Ngày nay, ở khu vực Hạnh Châu có một đài kỷ niệm để vinh danh chiến công của vị [[anh hùng dân tộc]] [[Quyền Lật]] và những quân dân Triều Tiên chiến đấu dưới sự chỉ huy của ông.
 
== Đàm phán giữa Trung Quốc và Nhật Bản (1594–1596) ==
Tại Bình Nhưỡng, tướng [[Lý Như Tùng]] khước từ mọi thỉnh cầu tiến quân giải phóng Seoul từ phía Triều Tiên. Ông đã chạm trán quân đội của Hideyoshi hai lần và đều thất bại. Nếu mạo hiểm giao chiến thêm lần nữa, kết quả có thể còn tệ hơn. Thay vào đó, ông quyết định đàm phán ngoại giao với phía Nhật.
 
Dưới sức ép của [[Nhà Minh#Quân sự|quân đội Trung Quốc]] và dân binh địa phương, với lương thực tiếp tế bị cắt đứt và quân đội của ông nay giảm xuống một phần ba vì bỏ trốn, bệnh tật và chết trận, Konishi buộc phải chấp nhận yêu cầu hòa giải. Lý Như Tùng đề nghị Konishi sắp xếp một cơ hội đàm phán để chấm dứt thế thù địch. Khi cuộc đàm phán đang tiến hành vào mùa xuân năm 1593, Trung Quốc và Triều Tiên đồng ý chấm dứt thù địch nếu quân Nhật cũng rút khỏi Triều Tiên. Tướng quân Konishi không còn lựa chọn nào khác trừ việc chấp nhận điều khoản này, nhưng rồi ông sẽ phải rất vất vả mới thuyết phục được Hideyoshi rằng ông không còn cơ hội nào khác.
 
Hideyoshi đề xuất với Trung Quốc việc phân chia Triều Tiên: phía Bắc là vùng đất vệ tinh tự trị của Trung Quốc, và phía nam vẫn nằm trong tay người Nhật. Đàm phán hòa bình phần lớn được Konishi Yukinaga, người chiến đấu chính với quân Trung Quốc, tiến hành. Lời đề nghị này được cân nhắc tới cho đến khi Hideyoshi yêu cầu thêm một công chúa Trung Quốc làm thiếp của mình. Sau đó, lời đề nghị nhanh chóng bị từ chối. Những cuộc đàm phán này được giữ bí mật với triều đình Triều Tiên.
 
Cho đến ngày [[18 tháng 5]], năm [[1593]], tất cả lính Nhật đã hành quân về phía nam, rời khỏi thủ đô Seoul.
 
===Trận Tấn Châu lần 2 ===
Vào tháng 7 năm 1593, quân Nhật hành quân tới thành phố phía nam Tấn Châu (Chinju) để gỡ lại [[Cuộc vây hãm Tấn Châu (1592)|trận thua tháng 11 năm trước]], trận chiến mà tướng đồn trú [[Kim Thời Mẫn]] và 3.800 quân của mình đã đánh bại cuộc tấn công của lực lượng Nhật đông tới 30.000 quân.
 
Lần này, quân Nhật quay lại với đội quân 93.000 người. Triều Tiên chỉ có 3.000 – 4.000 quân, dưới sự lãnh đạo của vài vị tướng đáng chú ý như: Hwang Jin, sĩ quan vùng Chungchong; Choi Kyung-hoe, sĩ quan vùng Kyongsang; Kim Chol-Il, một cựu quan lại, nay đang chỉ huy một nhóm du kích địa phương. Chỉ huy dân quân, Hồng y tướng [[Quách Thời Hữu]] khuyên bạn mình, Hwang Jin, hãy rút khỏi Chinju. Tướng Hwang biết rõ Chinju khó giữ, nhưng ông vẫn quả quyết với Chol-Il và những người khác rằng ông sẽ tử thủ tới cùng. Quách Thời Hữu đành buồn bã rời đi, biết rằng người bạn của mình đã quyết lòng hy sinh vì nước. Trong thành, các nghĩa sĩ Triều Tiên bắt đầu dự trữ lương thực, phong tỏa cổng thành, sẵn sàng nghênh địch.
 
Vào ngày 19 cùng 7, tòa thành đã trong hoàn cảnh bị bao vây bốn phía. Giao tranh không ngừng, cả ngày lẫn đêm từ ngày 20 tới ngày 24. Quân Nhật thay nhau vây hãm, cố gắng khoét đá khỏi tường thành. Quân Nhật dùng các cỗ xe để phá cổng thành, các chòi bắn cao được dựng lên trước cổng đông và tây, với một bên dựng rào tre để chắn cho xạ thủ. Phía trong tường thành, tướng Hwang Jin, Kim Chon-il, huyện lệnh Yi Chong-in và binh sỹ vẫn chiến đấu miệt mài, dù nhiều người trong số họ đã gần kiệt sức. Một tay súng Nhật dưới chân thành đã bắn trúng đầu Hwang khiến ông hy sinh.
 
Vào ngày 27/7, quân Nhật phá sập một mảng tường. Quân Triều Tiên không còn đủ người để tiếp tục kháng cự, mọi người đều đã kiệt sức sau cả tuần chiến đấu và cũng chẳng còn đường nào thể rút chạy. Khi quân Nhật tràn vào thành, Kim Chong-Il cùng con trai cả Kim Sang-gon và các chỉ huy Choi Kyong-hoe, Ko Chong-hu chạy tới đình Choksongnu nhìn ra bờ sông Nam. Sau khi cùng nhau hướng về kinh đô bái lạy nhà vua, họ cùng nhau gieo mình xuống sông tự vẫn. Huyện lệnh Yi Chong-in vẫn ở lại chiến đấu tới cùng. Sau cùng, ông khống chế một lúc hai lính Nhật, tới tảng đá trên bờ sông Nam và hét lớn: ''“Huyện lệnh Kimhae, Yi Chong-in đã chết tại đây!”'' rồi kéo cả ba xuống dòng sông.
 
Người Triều Tiên đến nay vẫn truyền tụng về tấm gương trung trinh ái quốc của người liệt nữ thành Tấn Châu tên là [[Nongae]] (hay Joo Nongae, Hangul: 주논개, Hanja: 朱 論 介) (3 tháng 9 năm 1574 - tháng 7 năm 1593). Joo Nongae sinh ra tại Jangsu, là vợ thứ 3 của chỉ huy Choi Kyong-hoe. Sau khi Choi Kyong-hoe hy sinh, Nongae nuôi chí báo thù cho chồng. Để ăn mừng chiến thắng, quân Nhật cho bắt tất cả ca kỹ trong thành tới để biểu diễn, Nongae đã cải trang thành một ca kỹ, cô quyến rũ một vị tướng Nhật (có nguồn nói tướng Nhật này tên là [[Keyamura Rokusuke]]), cả 2 đi lên một vách đá, đột ngột Nongae ôm lấy viên tướng Nhật rồi kéo hắn ta lao xuống biển, cả 2 đều thiệt mạng. Ngày nay, vách đá nơi Nongae tử tiết được gọi là ''Uiam (Vách đá chính nghĩa)'', Nongae được nhân dân Triều Tiên ca tụng là tấm gương phụ nữ trung trinh tiết liệt. Năm 1846, vị quan Jeong Jooseok ở huyện Jangsu (quê hương của cô) đã cho xây bia đá khắc dòng chữ ''“Quê hương sinh thành của Nongae, liệt nữ Chokseok”''. Đến năm 1955, người dân Jangsu đã lập Đền thờ Nongae ở núi Namsan, Jangsu.
 
Quân Nhật tàn sát ít nhất 60.000 người trong thành Chinju. Các tướng Kato, Ukita và Konishi hoàn toàn không có sự thương xót. Trong cơn điên cuồng trả thù, quân Nhật giết tới từng con vật, kéo đổ từng bức tường, đốt từng tòa nhà, lấp từng cái giếng, chặt từng cái cây. Chinju bị xóa sổ theo đúng nghĩa đen. Kể từ lúc Nhâm Thìn chiến tranh bắt đầu, không có nơi nào bị quân Nhật hủy diệt triệt để như Chinju.
 
===Thỏa ước đình chiến ===
Mùa hè năm 1593, một đoàn sứ thần Trung Quốc viếng thăm Nhật Bản và ở lại triều đình của Hideyshi hơn một tháng. Triều đình nhà Minh rút phần lớn quân viễn chinh về, nhưng vẫn giữ 16.000 lính ở bán đáo Triều Tiên để đảm bảo thực hiện thỏa ước đình chiến.
 
Một sứ thần của Hideyoshi đến [[Bắc Kinh]] năm 1594. Phần lớn quân Nhật đã rời Triều Tiên trước mùa thu năm 1596; tuy vậy vẫn còn một tòa thành nhỏ ở Busan. Thỏa mãn với lời đề nghị của người Nhật, triều đình Bắc Kinh gửi sứ đoàn đến ban cho Hideyoshi tước hiệu "Vua của nước Nhật" với điều kiện hoàn toàn rút quân Nhật khỏi Triều Tiên.
 
Sứ thần nhà Minh gặp Hideyoshi tháng 10 năm 1596. Theo sử sách Trung Quốc, khi Hideyoshi gặp sứ thần nhà Minh, ông mặc [[triều phục nhà Minh]], và khấu đầu với sứ thần Trung Hoa, thể hiện địa vị chư hầu của mình với nhà Minh Trung Quốc.<ref>朝鮮王朝實錄 宣祖 83卷, 29年(1596 丙申 / 萬曆 24年) 12月 7日] ''倭將行長, 馳報'''秀吉''', 擇於九月初二日, 奉迎冊命於大坂〔大阪〕地方受封。 職等初一日, 持節前往, 是日卽抵大坂〔大阪〕。 次日領受欽賜圭印、'''官服''', 旋卽佩執頂被, 望闕行'''五拜三叩頭禮''', 承奉誥命''</ref> Tuy vậy, Hideyoshi không thể nhận được các đòi hỏi khác của mình (kết hôn với con gái của Hoàng đế Vạn Lịch, có một Hoàng tử Triều Tiên làm con tin, và 4 đạo phía Nam Triên Tiên) từ nhà Minh.<ref>{{ko}} 김영작, 「임진왜란 전 • 후의 한일 외교사를 통해서 본 전쟁과 평화의 변증법」, 『한국정치외교사논총』, 1997, các trang 139. 155. ''양측은 오랜 절충 끝에 1596년 9월 명의 척사 양방형이 히데요시의 책봉의식을 통해 휴전이 성립시켰다. 그러나 여타의 조건을 관철시키지 못한 일본은 정유년(1597)에 또다시 대군을 일으켜 이후 2년 간 한반도에서 전쟁이 재개되었다.''</ref>
 
Sau đó, Hideyoshi nổi cơn tam bành. Ông quăng mũ miện, xé tan áo bào, những thứ được nhà Minh phong tặng. Sứ giả Trung Quốc bị tiễn về nước, Hideyoshi đơn phương hủy bỏ đàm phán. Đàm phán hòa bình nhanh chóng đổ vỡ và chiến tranh chuyển sang giai đoạn thứ hai khi Hideyoshi cử một đội quân xâm lược khác. Đầu năm 1597, cả hai bên trở về thế đối đầu.
 
== Tổ chức lại quân đội Triều Tiên ==
=== Đề xuất cải cách quân đội ===
[[Tập tin:Hwaseong2.jpg|nhỏ|250px|Công sự mạnh như [[thành Hwaseong]] rất cần. Tham nhũng ở bên trong khiến không thể tiến hành bấy kỳ công trình xây dựng nào.]]
Giữa hai cuộc xâm lược của Nhật Bản, triều đình Triều Tiên có cơ hội để kiểm tra lý do tại sao họ lại dễ dàng thất bại đến thế. Tể tướng Yu Seong-ryong nói thẳng bất lợi của Triều Tiên.
 
Yu chỉ ra rằng việc phòng thủ thành trì quá yếu, một thực tế mà ông đã nói đến từ trước chiến tranh. Ông lưu ý thành Triều tiên có các công sự và tường thành chưa hoàn thiện, quá dễ để leo qua. Ông cũng muốn đặt súng đại bác lên tường thành. Yu đề xuất xây dựng các tòa tháp vững chắc với tháp pháo cho đại bác. Bên cạnh thành trì, Yu muốn tạo lập một tuyến phòng thủ ở Triều Tiên. Ông đề xuất tái xây dựng chuỗi tường thành và đồn lũy bao bọc xung quanh Seoul. Với kiểu phòng thủ này, kẻ địch sẽ phải trèo qua nhiều lớp tường thành rồi mới đến được Seoul.
 
Yu cũng chỉ ra quân Nhật chiến đấu hiệu quả thế nào, họ chỉ mất một tháng để tiến đến Seoul, tổ chức của họ tốt ra sao. Các đơn vị quân đội tổ chức tốt góp phần lớn vào chiến công của các tướng quân Nhật. Yu ghi lại cách quân Nhật di chuyển các đơn vị trong tiến quân phức hợp, thường làm suy yếu quân địch bằng súng hỏa mai, sau đó tấn công bằng vũ khí cận chiến. Quân đội Triều Tiên thường tiến về phía trước thành một khối đông đảo mà chẳng có chút tổ chức gì cả.
 
=== Cơ quan huấn luyện quân đội ===
Vua Seonjo và triều đình Triều Tiên cuối cùng cũng bắt đầu cải cách quân đội. Tháng 9 năm 1593, Cơ quan huấn luyện quân đội được thành lập. Cơ quan này được cẩn thận chia quân đội thành các đơn vị và đại đội. Trong các đại đội có các tổ cung tên, súng hỏa mai, và lính cận chiến. Cơ quan này thành lập các đơn vị cỡ sư đoàn ở mỗi vùng và bảo vệ thành trì bằng các tiểu đoàn. Cơ quan này, ban đầu có chưa đến 80 thành viên, nhanh chóng phát triển quân số lên đến 10.000 người.
 
Một trong những thay đổi quan trọng nhất là cả công dân thượng lưu và nô lệ đều là đối tượng của kế hoạch. Tất cả đàn ông phải đi [[nghĩa vụ quân sự]] để được huấn luyện và làm quen với vũ khí.
 
Cũng trong khoảng thời gian này, học giả quân sự [[Han Gyo]] (한교) viết cuốn sách võ thuật [[Muyejebo]] (Võ nghệ chư phổ) dựa trên cuốn [[Kỷ hiệu tân thư]] do vị tướng nổi tiếng Trung Quốc [[Thích Kế Quang]] (戚继光) viết.
 
== Cuộc xâm lược lần thứ hai (1597–1598) ==
Hàng 714 ⟶ 999:
Thay vì chín cánh quân như trong lần xâm lược thứ nhất, quân đội lần này được chia thành Tả quân và Hữu quân, bao gồm 49.600 và 30.000 lính theo thứ tự.
 
Ít lâu sau khi sứ thần Trung Quốc về nước an toàn năm 1597, Hideyoshi cử đi 200 thuyền với khoảng 141.100 lính <ref name="second">브리태니커백과사전. [http://www.mtcha.com.ne.kr/korea-term/sosun/term312-jungyujeran.htm 정유재란 (丁酉再亂)]</ref> dưới quyền tổng chỉ huy của [[Kobayakawa Hideaki]].<ref name="turnbull187" /> Quân Nhật đến được bờ biển phía Nam tỉnh Gyeongsang năm 1596 mà không gặp phải sự kháng cự nào. Tuy vậy, quân Nhật thấy rằng người Triều Tiên lần này đã được trang bị tốt hơn và sẵn sàng đối mặt với một cuộc xâm lược.<ref name="project">Korean History Project - Where the Past is Always Present. [http://koreanhistoryproject.org/Ket/C12/E1205.htm Song of the Great Peace] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20070927190716/http://koreanhistoryproject.org/Ket/C12/E1205.htm |date = ngày 27 tháng 9 năm 2007}}</ref> Thêm vào đó, khi Trung Quốc biết được tin này, triều đình Bắc Kinh bổ nhiệm [[Dương Hạo (nhà Minh)|Dương Hạo]] (楊鎬) làm tổng chỉ huy đạo quân tiên phong 55.000 lính <ref name="second" /> từ nhiều tỉnh (đôi khi ở cả vùng xa xôi) khắp Trung Quốc, ví dụ như [[Tứ Xuyên]], [[Chiết Giang]], [[Hồ Quảng]], [[Phúc Kiến]] và [[Quảng Đông]].<ref>Hawley, ''The Imjin War'', ''op. cit'', p. 450.</ref> Quân đội còn có thêm 21.000 thủy quân.<ref>Huang, Ray, "The Lung-ch'ing and Wan-li Reigns, 1567–1620." in ''The Cambridge History of China. Vol. 7, ''The Ming Dynasty, 1368–1644, Part I, edited by Denis Twitchett and John Farbank. Cambridge University Press, 1988, p. 572.</ref> Sử gia Trung Quốc [[Hoàng Nhân Vũ]] ước tính tổng quân số Trung Quốc trong chiến dịch lần thứ hai này là vào khoảng 75.000 quân.<ref>Huang, Ray, "The Lung-ch'ing and Wan-li Reigns, 1567–1620." in ''The Cambridge History of Chani. Vol. 7, ''The Ming Dynasty, 1368–1644, Part I, edited by Denis Twitchett and John Farbank. Cambridge University Press, 1988, p. 572.</ref> Tổng quân số Triều Tiên là 30.000 người với quân đội của Tướng [[Gwon Yul]] tại núi Gong (공산; 公山; Công Sơn) ở [[Daegu]], quân của Tướng [[Gwon Eung]] (권응) ở [[Gyeongju]], lính của [[Gwak Jae-u]] tại [[Changnyeong]] (창녕), quân của [[Yi Bok-nam]] (이복남) tại [[Naju]], và quân của [[Yi Si-yun]] tại [[Chungpungnyeong]].<ref name="second" />
 
=== Cuộc tấn công đầu tiên ===
Hàng 731 ⟶ 1.016:
Cũng như lần đầu tiên, hải quân Triều Tiên đóng vai trò cốt yếu trong cuộc kháng chiến thứ hai. Bước tiến của quân Nhật bị chặn đứng vì thiếu quân cứu viện và tiếp tế vì các chiến thắng trên biển của Triều Tiên khiến người Nhật không tiếp cận được phía Tây Nam bán đảo Triều Tiên.<ref>Lee, Ki-Baik, ''A New History of Korea'', Edward W. Wagner và Edward J. Shultz dịch, Ilchorak/Harvard University Press, 1984, p. 214, ISBN 0-674-61575-1.</ref> Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai này, Trung Quốc cũng cử đội thuyền hùng mạnh của mình đi cứu viện Triều Tiên. Điều này khiến hải quân Triều Tiên càng trở thành mối đe dọa lớn với người Nhật, vì họ phải đối mặt với hạm đội địch lớn mạnh hơn.
 
==== Âm mưu chống lại Đô đốc YiLý Thuấn Thần ====
Ban đầu, thủy quân Triều Tiên bị đẩy lùi khi [[Won Gyun]] (Nguyên Quân) nắm quyền chỉ huy thay Đô đốc Lý Thuấn Thần.
 
Vì Đô đốc Lý Thuấn Thần, thống lĩnh hải quân Triều Tiên, quá tài giỏi trong hải chiến, người Nhật âm mưu ám hại ông bằng cách dùng luật lệ của chính quân đội Triều Tiên. Một điệp viên hai mặt của Nhật làm việc cho Triều Tiên báo cáo sai rằng tướng Nhật [[Katō Kiyomasa]] sẽ lại tấn công vào bờ biển Triều Tiên với ngày giờ chính xác cùng một hạm đội Nhật Bản lớn, và khẳng định rằng Đô đốc Lý Thuấn Thần nên được cử đi mở cuộc tập kích.<ref>Turnbull, Stephen. 2002, các trang 182–183.</ref>
 
Biết rằng khu vực này có nhiều đá ngầm bất lợi cho tàu chiến, Đô đốc Lý Thuấn Thần từ chối, và bị [[Triều Tiên Tuyên Tổ|Vua Seonjo]] cách chức, tống giam vì bất tuân thượng lệnh. Đến cao trào, Đô đốc Won Gyun còn cáo buộc Đô đốc Yi uống rượu và chây lười. Won Gyun nhanh chóng thế vào vị trí của Đô đốc Yi.
 
==== Trận Chilchonryang ====
Hàng 795 ⟶ 1.080:
[[Tập tin:Port of Yeosu.jpg|nhỏ|240px|Yeosu ngày nay. Sở chỉ huy của Đô đốc Yi nằm tại đây.]]
Cuộc xâm lược của Nhật Bản là cuộc chiến tranh khu vực đầu tiên ở châu Á có các đội quân lớn trang bị vũ khí hiện đại.<ref name="SWOPE13">Swope. 2005. các trang 13.</ref> Quân Nhật thường triển khai quân đội lên đến 200.000 lính, quân Trung Quốc phần lớn ở mức 80.000,<ref name="SWOPE186">Swope. 2006. các trang 186.</ref> và sự tham dự không thường xuyên của Triều Tiên cũng lên đến hàng trăm ngàn, tương đương với số quân của toàn châu Âu trong [[Chiến tranh Ba mươi năm]].
 
Cuộc chiến tranh này khắng định vị thế Bá Chủ Đông Á của Nhà Minh ở 2 mức độ:<ref name="SWOPE757">Swope. 2002. các trang 757</ref> về quân đội, theo đó cuộc chiến tái khẳng định vị thế độc tôn về quân sự của [[nhà Minh]] tại [[Đông Á]], và về chính trị, cuộc chiến xác nhận rằng Trung Quốc sẽ bảo vệ cho các quốc gia triều cống mình.<ref name="SWOPE781">Swope. 2002. các trang 781</ref>
 
Nếu thuyết cho rằng Hideyoshi cố gắng chinh phục Trung Quốc (trái với thuyết cho rằng Hideyoshi có mục đích hướng đến một "trật tự thế giới lấy Nhật Bản làm trung tâm") là đúng, cũng cần lưu ý rằng vị thế địa chính trị của [[Triều Tiên]] như là cầu nối giữa Trung Quốc và Nhật Bản khiến cuộc chiến chủ yếu diễn ra trên [[bán đảo Triều Tiên]] (điều tương tự cũng xảy ra trong [[Chiến tranh Trung-Nhật]], [[cuộc xâm lược Nhật Bản của Mông Cổ|Mông Cổ xâm lược Nhật Bản]]).<ref name="turnbull9" />
 
Tham vọng xâm lược của Hideyoshi rõ ràng đã kết thúc trong thất bại. Quân đội của ông ta đem về Nhật Bản một danh sách dài chiến lợi phẩm: hàng ngàn cuốn sách và tranh vẽ, đồ tạo tác tôn giáo, các thiết bị cơ giới do người Triều Tiên phát minh, hơn 5.000 nô lệ bao gồm thợ gốm và nhiều thợ thủ công mà người Nhật còn thiếu. Nhưng vẫn là quá ít ỏi so với 130.000 lính Nhật nơi đất khách.
 
Cuộc chiến tranh này khắng định vị thế Bá Chủ Đông Á của Nhà Minh ở 2 mức độ:<ref name="SWOPE757">Swope. 2002. các trang 757</ref> về quân đội, theo đó cuộc chiến tái khẳng định vị thế độc tôn về quân sự của [[nhà Minh]] tại [[Đông Á]], và về chính trị, cuộc chiến xác nhận rằng Trung Quốc sẽ bảo vệ cho các quốc gia triều cống mình.<ref name="SWOPE781">Swope. 2002. các trang 781</ref> Tuy nhiên, những tác động to lớn lên kho bạc của nhà Minh lại rất nghiêm trọng. Theo ước tính, từ 20 đến 26 triệu lượng bạc đã được nhà Minh sử dụng cho các lực lượng viễn chinh, tương đương gần 1.000 tấn. Chi tiêu này làm suy yếu đáng kể triều đình nhà Minh trong thời điểm họ phải đối mặt với một mối đe dọa nghiêm trọng, đó là sự trỗi dậy của người [[Nữ Chân]] ở miền đông bắc. 45 năm sau, những người Nữ Chân đã chiếm Bắc Kinh vào năm 1644 và thay thế nhà Minh, lập nên triều đại [[nhà Thanh]].
 
Triều Tiên là nước chịu nhiều thiệt hại nhất từ cuộc chiến. Nền kinh tế của họ hoàn toàn bị tàn phá, các thành phố và thị trấn bị phá tan hoang. Thương vong chiếm khoảng 20% dân số, bao gồm cả binh lính, dân thường chết trong chiến loạn, chết vì dịch bệnh hay vì nạn đói.
 
Sau đó, Nhật Bản đã không trở lại Triều Tiên cho tới khi [[Đế quốc Nhật Bản]] đánh bại [[Nhà Thanh]] trong [[Chiến tranh Thanh-Nhật]] và đánh bại cả [[Đế quốc Nga]] trong [[Chiến tranh Nga-Nhật]] về sau, từ 1894 tới 1905. Nhật Bản đặt ách đô hộ lên Triều Tiên năm 1910 và Triều Tiên chỉ được giải phóng sau thất bại của Nhật trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] năm 1945.